Chương 7 - Vợ Lẽ Thứ Mười Tám

Tưởng Giới Thạch ra lệnh khẩn cấp, yêu cầu toàn quân rút lui.

Chúng tôi bị chia thành hai nhóm, rút về Nam Kinh và Tô Châu.

Lệnh rút quân quá gấp gáp, kế hoạch rút lui hỗn loạn.

Quân Nhật điên cuồng ném bom.

Nhiều chiến sĩ chưa kịp chết trên chiến trường, lại bỏ mạng trên đường tháo chạy.

Một quả bom nổ tung ngay gần đó. Hàng chục người bị xé xác thành từng mảnh.

Tôi cũng bị sóng xung kích hất văng, ngất đi.

Khi tỉnh lại, tôi đã lạc mất đơn vị.

Tôi dự định tự mình đến Nam Kinh, tìm lại đơn vị của mình. Nhưng chưa kịp đến Nam Kinh, tôi đã nghe tin chính phủ Quốc Dân Đảng chuyển thủ đô đến Trùng Khánh, còn Nam Kinh đã thất thủ.

Tôi lập tức đổi hướng, lên đường đến Trùng Khánh.

Thức ăn mang theo đã hết.

Bàn chân tôi bị trầy xước, chảy máu, những vết thương do phẫu thuật trước đây bắt đầu đau nhói.

Tôi tựa vào một gốc cây bên đường, siết chặt khẩu súng trong ngực.

Nếu gặp quân Nhật, tôi cũng sẽ bắn chết một tên, đổi mạng với hắn.

Đúng lúc này, một giọng nói vang lên:

“Cô gái, sao lại đi một mình ở đây? Bây giờ chiến tranh loạn lạc, con gái không nên đi lung tung đâu!”

Tôi ngẩng đầu, một người đàn ông xuất hiện trước mắt. Da anh ta ngăm đen, mặc quân phục của Đảng Cộng Sản.

“Anh là quân Cộng Sản?”

“Đúng rồi!”

Anh ta bị nhận ra, cười rạng rỡ, để lộ hàm răng trắng sáng.

“Các anh có đội cứu thương không? Tôi là y tá, có thể gia nhập đội y tế của các anh không?”

Thế là, tôi theo chân quân đội Cộng Sản, lại một lần nữa đặt chân lên chiến trường.

Điều kiện y tế của quân đội Cộng Sản còn tệ hơn nhiều.

Bệnh viện dã chiến dựng trong những căn nhà tranh, lều cỏ, thiếu thốn cả nhân lực lẫn thiết bị.

Tôi vốn chỉ là một y tá, nhưng vì biết một chút về dược lý cơ bản và sơ cứu ngoại khoa, tôi bị coi như bác sĩ.

Những cô bé tình nguyện viên, sau vài buổi huấn luyện sơ sài, đã phải trở thành y tá thực thụ.

Ở đây, ngay cả bông cầm máu cũng phải xé ra từ những chiếc áo bông sạch, thuốc kháng sinh gần như không có.

Số lượng binh sĩ chết vì nhiễm trùng không thể đếm xuể.

14

Dù gian khổ như vậy, nhưng chưa ai từng có ý định lùi bước.

Những binh sĩ chỉ bị thương nhẹ, băng bó xong là lập tức quay lại chiến trường.

Những người bị thương nặng hơn, dù nằm trên cáng, vẫn hô hào đòi quay lại tiền tuyến:

“Hết sống nổi rồi, chi bằng giết thêm hai thằng Nhật trước khi chết, vậy mới đáng!”

Tôi ngày đêm nhớ nhung Tào Nhược Định nhưng tôi không thể đi tìm anh.

Khắp Trung Hoa chìm trong khói lửa chiến tranh.

Cuộc kháng chiến toàn diện đã bắt đầu. Mỗi người đều phải có ý thức hy sinh. Tôi biết anh cũng nghĩ như vậy.

Điều duy nhất tôi mong mỏi là chiến tranh nhanh chóng kết thúc, đuổi giặc Nhật ra khỏi Trung Hoa, để tôi và anh có thể trở về bờ sông Phủ Nam, thực hiện lời hẹn ước khi vẫn còn trẻ.

Tôi vén rèm lều, cúi người đi vào.

“Anh Trần, đã hai tháng rồi, có thêm vật tư y tế không?”

Nhưng bên trong, ai nấy đều lặng thinh.

Bầu không khí trầm xuống nặng nề.

“Tiểu Nguyệt Nhi… Trần Trụ trúng sáu phát đạn, đã hy sinh anh dũng rồi…”

Một người đồng đội giải thích với tôi.

“Thi thể của anh ấy đâu? Tôi muốn đưa anh ấy về nhà.”

Chắc anh ấy cũng muốn về nhà lắm. Chiến đấu suốt thời gian dài như vậy, chắc chắn anh ấy rất muốn trở về.

Tôi là đồng hương của anh ấy, tôi phải đưa anh ấy về.

Các chiến sĩ xung quanh nhìn tôi, rồi lại nhìn nhau. Mắt ai cũng đỏ hoe, nước mắt lưng tròng nhưng không ai nói một lời.

“Khi quân Nhật dọn dẹp chiến trường, chúng phát hiện thi thể của Trần Trụ. Vì chỉ huy Nhật đã treo thưởng cho ai lấy được đầu của anh ấy nên bọn chúng bèn chặt đầu anh ấy.”

“Đầu anh ấy bị treo trên cây để thị uy. Sau đó, quân Nhật mang đầu anh ấy về thành Thái Châu để lĩnh thưởng từ sở chỉ huy.”

“Vậy còn phần thi thể? Dù sao đi nữa, trái tim anh ấy vẫn còn ở đó. Nếu mang được về, cũng coi như anh ấy đã về nhà.”

“Thi thể… cũng bị mang đi rồi…”

Tôi không muốn nghe tiếp nữa. Tôi quay lại tiếp tục băng bó cho thương binh, toàn thân tê dại.

Sau khi trận chiến thật sự kết thúc, tôi và vợ của Trần Trụ đi tìm nơi anh ấy ngã xuống.

Chiến trường đã được dọn sạch. Thi thể các binh sĩ đều bị chôn tại chỗ.

Phần thân không đầu của Trần Trụ được dân làng mang về, dùng tấm cửa nhà mình đóng thành quan tài rồi chôn cất.

Trên mộ có một tấm gỗ, trên đó viết:

【Tướng quân Trần Trụ.】

Tôi thầm cảm thấy may mắn vì dù không thể nguyên vẹn, ít nhất anh ấy vẫn được yên nghỉ trên mảnh đất Trung Hoa đầy thương tích vì bom đạn, chứ không phải bị quân Nhật mang đi làm chiến lợi phẩm.

Vợ anh nhờ người mở quan tài.

Tôi nhìn thấy chiếc áo vải đã sờn rách trên thi thể anh, loang lổ vết máu đã khô, chuyển màu nâu thẫm.

Gió lạnh thổi qua, lạnh như lòng người.

Chúng tôi thuê một con thuyền nhỏ, chở thi thể Trần Trụ về An Châu.

Tôi không đi cùng.

Vợ anh – chị Vương – lên đường một mình. Chị muốn đưa chồng về nhà, nguyên vẹn nhất có thể.

Khi đến An Châu, thuyền dừng lại bên ngoài thành.

Chị Vương thuê người canh giữ thuyền, rồi cùng con gái lớn – bé Trần Ngọc, khi ấy mới sáu tuổi – tìm cách liên lạc với sĩ quan Nhật mà chị từng quen biết.

Phía Nhật đồng ý trả lại đầu của Trần Trụ, hẹn ngày để chị đến nhận.

Đến ngày hẹn, chị Vương và bé Trần Ngọc đến Sở chỉ huy của quân Nhật bên ngoài thành Sùng Châu.

Chị vừa đến nơi, liền nhìn thấy một án thờ. Trên án có một chiếc chậu gỗ, bên trong đặt một bình thủy tinh miệng rộng.

Đầu của chồng chị đang được ngâm trong hóa chất.

Chị tiến lên định lấy đi, nhưng quân Nhật không cho.

Họ nói phải cử hành một nghi lễ.

Viên sĩ quan Nhật ra lệnh cho binh lính xếp thành hàng ngay ngắn.

Hắn dâng hương lên bàn thờ, rồi cúi lạy.

Nghi lễ xong, một binh sĩ Nhật nâng chiếc hộp gỗ lên, trao nó cho chị.

Chị Vương đón lấy đầu chồng, lòng đau như dao cắt. Chị cố nén nỗi đau, giữ vững tinh thần.

Không ngờ, viên sĩ quan Nhật vẫn không cho chị đi.

Hắn nói:

“Chúng ta là hai quốc gia khác nhau.

Tướng quân Trần Trụ chiến đấu vì đất nước của ông ấy, còn tôi chiến đấu vì đất nước của tôi.

Nhưng chúng tôi khâm phục lòng dũng cảm của ông ấy, muốn học theo tinh thần đó.”

Hắn liếc nhìn bụng của chị Vương, trông đã tròn trịa như sắp sinh.

Hắn hỏi chị có mấy đứa con.

Chị đáp:

“Hai đứa con gái.”

Hắn nói, hy vọng chị sẽ sinh một đứa con trai.

Chị Vương hiểu rằng, không chỉ để tôn vinh tinh thần kiên cường bất khuất của người lính Trung Hoa, quân Nhật còn lợi dụng nghi lễ này để tuyên truyền chính sách “hòa hoãn nhân đạo” của Đế quốc Nhật Bản.

Sau khi nghi thức kết thúc, chị Vương đem đầu của chồng trở về bến thuyền, thuê người khâu nó vào thân thể.

Chị muốn đưa anh về quê an táng nhưng quân Nhật không đồng ý.

Cuối cùng, chị đành phải mai táng chồng ở bên ngoài cửa Tây thành An Châu, dưới cây cột điện thứ mười, trên mảnh ruộng của một gia đình họ Đường.

15

Ngày 15 tháng 8 năm 1945.

Thiên hoàng Nhật Bản tuyên bố chấp nhận Tuyên bố Potsdam, đầu hàng vô điều kiện.

Nghe tin, chúng tôi hò hét, đập bàn ăn mừng, ôm nhau khóc.

Bên ngoài, từng hồi trống vang lên rộn rã. Người dân lao ra đường, hét lớn:

“Nhật Bản đầu hàng rồi!”

“Chúng ta thắng rồi!”

Chúng ta thắng rồi!

Từ tháng 8 năm 1937, khi tôi theo Tào Nhược Định ra tiền tuyến Thượng Hải. Đến tháng 8 năm 1945, khi Nhật Bản tuyên bố đầu hàng.

Từ khi tôi 19 tuổi. Đến bây giờ, tôi đã 27.

Suốt 8 năm.

Tròn tám năm trời!

Cuối cùng, chúng ta đã thắng!

Tôi nhìn về phía xa, ánh mắt như xuyên qua muôn ngàn núi sông, dừng lại ở nơi anh.

Tào Nhược Định, chúng ta sắp được gặp nhau rồi!

Nhưng, đời không như tôi nghĩ.

Tháng Chín năm ấy, Tưởng Giới Thạch mời Mao Trạch Đông đến Trùng Khánh để bàn luận các vấn đề trong nước và quốc tế.

Sau 43 ngày đàm phán, hai bên ký Hiệp định Song Thập, mong muốn hòa bình lập quốc.

Nhưng ngay khi vừa ký xong, Tưởng Giới Thạch bí mật điều động 110 vạn quân đội, chia ba mũi tiến công quân Giải phóng ở Hoa Bắc.

Trung ương Đảng Cộng Sản lập tức điều động 11 vạn quân và 2 vạn cán bộ lên Đông Bắc để chặn đánh.

Tôi lại một lần nữa khoác lên vai túi cứu thương, theo quân đội lên đường.

Nhưng tâm trạng tôi lúc này đã hoàn toàn khác so với khi tham gia kháng chiến chống Nhật.

Chúng tôi đã đánh bại ngoại xâm, giành được hòa bình với bao xương máu.

Vậy tại sao bây giờ lại phải đánh nhau?

Lại còn đánh với chính người của mình?

Tôi thầm cầu nguyện Tào Nhược Định đừng ra trận.

Thậm chí, tôi còn mong anh có thể trốn quân ngũ.

Tháng Mười Một, nhà văn Quách Mạt Nhược tổ chức Đại hội phản đối nội chiến tại Trùng Khánh.