Chương 5 - Vợ Lẽ Thứ Mười Tám

9

Chúng tôi đi Bắc Bình bằng tàu hỏa.

Trước khi rời đi, tôi tháo chiếc vòng bà nội cho, đặt vào ngăn kéo.

Tào Nhược Định hỏi tại sao không đeo nữa. Tôi nói không quen đeo, thấy vướng víu.

Ở thành Dung Đô không có tuyến tàu chạy thẳng đến Bắc Bình, phải đổi tàu nhiều lần.

Ra ngoài xa như vậy, nhưng chúng tôi mang theo rất ít hành lý. Vì khi thu dọn đồ đạc, anh nói rằng thiếu gì thì đến đó mua cũng được, chỉ cần chuẩn bị đồ dùng trên tàu là đủ.

Chỉ đến lúc này, tôi mới cảm thấy anh thực sự là một công tử được nuông chiều từ nhỏ.

Nhìn những người đi tàu mà xem, ai cũng mong muốn mang theo tất cả tài sản của mình, ngay cả bao gạo ăn dở ở nhà cũng phải gói ghém mang theo.

Hành lý của chúng tôi không nhiều, nhưng do tôi đi lại khó khăn, hầu hết đều phải nhờ anh cõng hoặc bế.

Tôi nói mình có thể bó chân lại để tự đi.

Anh nhíu mày:

“Nguyệt Nhi, có phải em quên mất mình đến Bắc Bình để làm gì rồi không?”

Phải rồi, mình đi làm phẫu thuật thả chân, vậy mà lại nghĩ đến chuyện bó chân lại.

Tôi bật cười vì sự ngốc nghếch của mình. Thấy tôi cười, anh cũng cười theo.

Càng đi về phía Bắc, núi càng cao.

Ban đầu tôi còn thích thú ngó ra cửa sổ ngắm cảnh, nhưng lâu dần cũng thấy chán.

Tàu cứ lắc lư mãi, không thể đọc sách, ngồi lâu quá cũng thấy mệt mỏi.

Tựa vào vai anh, tôi lắng nghe anh kể những chuyện thú vị khi học lái máy bay ở trường quân đội. Anh nói mãi, tôi nghe mãi, chẳng còn thấy quãng đường dài lê thê nữa.

Thậm chí, tôi còn mong nó dài hơn. Nếu như hành trình này không bao giờ kết thúc thì tốt biết bao.

Khi đến Bắc Bình, anh không đưa tôi đến bệnh viện ngay, mà dẫn tôi dạo quanh thành phố.

Tôi nhìn tòa hoàng thành ngày xưa. Chính tại nơi này, triều đại nhà Thanh đã sụp đổ sau hàng trăm năm thống trị.

Lòng tôi bỗng dâng lên cảm xúc khó tả, không biết việc Đại Thanh diệt vong rốt cuộc là tốt hay xấu.

Có lẽ là tốt.

Nếu không, tôi đã phải gả cho một “quý ông thượng lưu” nào đó, làm gì có cơ hội gặp anh, lại càng không thể biết đến Nightingale hay Helen Keller.

Lúc này đã vào đầu thu, gió rít từng cơn, lành lạnh như lưỡi dao lướt qua da mặt.

Tôi than thở rằng gió ở Bắc Bình không dịu dàng như ở Dung Đô. Nghe thế, anh liền đưa tay che lên má tôi, ngăn cơn gió khô ráp.

Anh đưa tôi đi thưởng thức món vịt quay, bánh chiên, giò heo kho, bánh cuốn nhân đậu đỏ, chè đậu xanh, lòng xào, dồi chiên… Tất cả những món mà tôi chưa từng nếm thử, anh đều đưa tôi đi ăn một lượt.

Đến ngày thứ ba, tôi nhập viện ở bệnh viện Hiệp Hòa.

Các bác sĩ đã nghiên cứu suốt một tuần, cuối cùng đưa ra một phương án mà tôi nghe không hiểu lắm.

Tóm lại là, hai chân sẽ được phẫu thuật riêng lẻ, làm từng chân một để xem kết quả thế nào.

Trong bệnh viện, tôi dần hiểu ra công việc của y tá.

Họ không phải là nha hoàn hầu hạ bệnh nhân. Họ hỗ trợ bác sĩ trong việc điều trị, chăm sóc không chỉ sức khỏe mà cả tinh thần của bệnh nhân.

Cả đời này, ngoài Tào Nhược Định ra, chưa từng có ai chăm sóc tôi chu đáo như những y tá ở bệnh viện. Ngay cả bà nội cũng không, bà vẫn thường bảo tôi khi bị bệnh rằng đừng lây bệnh cho em trai.

Tôi trải qua nhiều lần phẫu thuật ở bệnh viện Hiệp Hòa.

Tào Nhược Định luôn hỏi tôi có đau không, tôi chỉ cười lắc đầu, bảo không đau.

Làm sao mà đau được chứ.

Rời khỏi bóng tối ngu dốt và tê dại, từng bước đi về phía ánh sáng, tôi mừng còn không kịp, làm sao có thể thấy đau cho được.

Ba tháng sau, tôi xuất viện.

Nhưng điều đó không có nghĩa là tôi đã có thể đi lại bình thường.

Tôi vẫn cần thêm một năm nữa để tập phục hồi chức năng, đợi vết thương lành hẳn.

10

Đêm ở Bắc Bình rất tĩnh lặng, các cửa tiệm trên phố đang dần đóng cửa.

Tôi cảm thấy ánh đèn tối nay sáng rực rỡ hơn mọi khi, không phải ánh sáng chập chờn của bếp củi, mà là thứ ánh sáng chân thực, soi rõ mọi thứ.

Ngay cả không khí cũng mang theo mùi vị của sự tự do, khô ráo và thoáng đãng.

Trên đường trở về khách sạn, anh cõng tôi trên lưng. Anh nói:

“Nguyệt Nhi, sau này em có thể tự mình đi rồi.”

Tôi vô thức siết chặt hai tay, ôm lấy cánh tay anh, cũng không còn tâm trí ngắm trăng sao nữa, ngay cả không khí quanh mũi cũng trở nên oi bức.

Tôi thì thầm:

“Anh phải ở bên em!”

Anh thở dài rồi nói:

“Nguyệt Nhi, nếu ví cuộc đời em như một cuốn sách, thì anh chẳng qua cũng chỉ là vài dòng chữ trong những trang sách ấy mà thôi. Anh có thể đi cùng em một đoạn, nhưng không thể bên em cả đời.”

Tôi chợt cao giọng hỏi:

“Sao lại không thể?! Em đã gả cho anh, em muốn ở bên anh cả đời!”

Tôi biết anh đang nghĩ gì.

Gần đây, khắp Bắc Bình đều bàn tán về chiến sự ở Đông Bắc.

Anh không còn muốn tôi nữa. Anh muốn ra chiến trường.

Nước mắt tôi rơi xuống từng giọt, tí tách như những giọt mưa đọng trên mái hiên.

“Trời mưa rồi à?”

Anh thả một tay ra, giơ lên không trung, chờ mãi cũng không thấy hạt mưa nào rơi xuống. Lúc đó, anh mới nhận ra đó là nước mắt của tôi.

Thế nhưng, thay vì an ủi tôi, anh lại bật cười:

“Thì ra là giọt vàng của tiểu Nguyệt Nhi nhà chúng ta.”

Tôi không kiềm được nữa, òa lên khóc nức nở. Khóc như thể muốn vắt hết những tủi hờn suốt mười sáu năm qua, khóc đến khi toàn thân đều trút bỏ hết mọi uất ức.

“Em mặc kệ! Em muốn ở bên anh cả đời!”

Tôi khóc càng to, anh lại càng cười lớn.

Tức quá, tôi giơ tay đấm vào vai anh mấy cái thật mạnh.

“Được, được, được! Cả đời, cả đời.”

Cuối cùng, anh cũng không chịu nổi “nắm đấm thép” của tôi.

“Anh phải nói nghiêm túc!”

Anh bế tôi cao hơn một chút, nói với giọng dịu dàng:

“Tiểu Nguyệt Nhi, chúng ta sẽ bên nhau cả đời.”

Vừa dứt lời, những cánh hoa lê trắng từ trên trời bất ngờ rơi xuống. Những cánh hoa chạm vào mặt, lạnh buốt. Khi rơi vào lòng bàn tay, chúng lập tức tan thành nước.

Anh nói, đây không phải là cánh hoa lê mà là tuyết.

Tôi chưa bao giờ thấy tuyết ở thành Dung Đô.

Chẳng mấy chốc, tuyết đã phủ kín mặt đất, mái nhà, cả tôi và anh cũng bị tuyết vùi kín.

Tôi ngồi trên lưng anh, đung đưa chân, giơ tay ra hứng tuyết.

“Lạnh không?” Anh hỏi.

“Không lạnh, vui lắm.” Tôi đáp.

Một chàng trai trẻ mặc quần yếm, đội mũ báo chí đứng trước cửa hiệu ảnh, cất giọng chào mời:

“Anh chị ơi, tuyết rơi rồi, vào chụp một tấm ảnh đi, tránh gió một chút nào!”

Tào Nhược Định quay đầu nhìn tôi:

“Muốn chụp một bức không?”

Tôi vốn muốn chụp nhưng đột nhiên lại nhớ đến tấm ảnh của lão Lý què – một tấm ảnh ngồi nghiêm chỉnh, lừa người lừa cả mình.

Tôi hiện tại cũng là một kẻ què, chụp ảnh chắc chắn cũng chỉ có thể ngồi mà thôi.

Tôi muốn đứng bên cạnh anh, chụp một bức ảnh thật đẹp nên lắc đầu:

“Chờ đến khi chân em lành, trở về Dung Đô rồi hãy chụp.”

“Được.”

Chỉ là, tôi đã bỏ lỡ cơ hội duy nhất để chụp ảnh cùng anh.

Tôi luôn nghĩ rằng, anh đã hứa sẽ ở bên tôi cả đời, một bức ảnh mà thôi, sớm muộn gì cũng sẽ chụp được.

Nếu tôi biết trước… cho dù chỉ có thể nằm bò trên mặt đất, tôi cũng muốn chụp chung với anh một tấm ảnh.

11

Nửa năm sau, chúng tôi trở về thành Dung Đô.

Lúc này, tôi đã có thể đi lại chậm rãi.

Bác sĩ Giang khuyên tôi nên tập đi xe đạp mỗi ngày, như vậy bàn chân sẽ không phải chịu quá nhiều áp lực, giúp quá trình hồi phục thuận lợi hơn.

Tào Nhược Định dạy tôi đi xe đạp bên bờ sông Phủ Nam.

“Anh nhất định phải giữ chặt, tuyệt đối không được buông tay ra đấy nhé!”

“Ừ, yên tâm đi, anh sẽ không buông đâu.”

Tôi ngồi lên xe đạp, anh giữ phần yên xe phía sau, chạy theo sau lưng tôi.

Ban đầu tôi đạp nghiêng ngả, không giữ được thăng bằng. Nhưng mỗi lần sắp ngã, anh đều kịp thời đỡ xe giúp tôi đứng vững.

Biết rằng phía sau có anh, tôi dần yên tâm hơn.

Lần này, tôi đạp xe đi được hơn mười mét, xe vẫn thẳng thớm.

Tôi vui vẻ ngoảnh lại nhìn anh…

Nhưng anh đang đứng cách tôi rất xa, mỉm cười nhìn theo tôi.

Tim tôi bỗng nhiên hoảng loạn. Ghi đông xe mất kiểm soát, loạng choạng.

Anh nhanh chóng chạy tới, đúng lúc tôi ngã xuống, anh đỡ lấy tôi.

Cả tôi và chiếc xe đạp đều đè lên người anh.

“Hu hu!”

Bất giác, tôi tủi thân phát khóc:

“Sao anh có thể lừa em chứ!”

Anh ôm tôi vào lòng:

“Xin lỗi, tiểu Nguyệt Nhi.”

“Sao anh có thể lừa em!”