Chương 5 - Nhuyễn Ngọc

5.

Ở kinh thành có bao nhiêu ăn mày?

Hơn ba ngàn bảy trăm người.

Đây là bố cáo của quan phủ.

Nhưng cha tôi bảo không phải đâu. Ông kể trên đường vào kinh, ông gặp lưu dân từ Lưỡng Hồ, Lưỡng Quảng, Thiểm Tây, Hà Nam, ăn mày từ khắp nơi đổ đến kinh thành.

Hoàng gia chiếm ruộng quan, quan gia chiếm ruộng địa chủ, địa chủ không đóng nổi thuế đất, không đóng được tiền lao dịch của quan phủ, bách tính không muốn bị bắt đi sung quân nên đành bỏ trốn.

Lưu dân khắp thiên hạ đều muốn đến đô thành phồn hoa, đến dưới chân Thiên tử xin miếng cơm ăn.

Mặt trăng treo trên ngọn cây cao, Lương Đình ngơ ngác nhìn ăn mày ngủ đầy đất.

Những người kia mặc áo hở ngực, đi chân trần, còn có em bé chưa dứt sữa. Ai cũng da bọc xương, thương tích đầy mình, có mấy người trông khỏe mạnh cũng có vẻ ngây dại.

Tôi sợ cậu giật mình, vội kéo Lương Đình ngồi xuống.

- Ông chủ nhà này, mỗi mồng năm và mười sáu sẽ phát cháo. Cháo nhà ông ấy có bỏ gạo nên đặc lắm.

- Nhưng chỉ có hai ngồi lớn thôi, đến muộn sẽ không có.

Thời gian chờ hừng đông rất tẻ nhạt.

Đêm đó Lương Đình vẫn im lặng không nói gì, dựa vào thềm đá trước cửa phủ ngắm sao.

Tôi biết cậu nhớ cha mẹ.

- Đậu Hũ này, cô biết chữ không? - Cậu hỏi, - Cô thông minh lanh lợi, tìm một gia đình có tiểu thư làm hầu gái cũng được, sao lại đi làm ăn mày?

Cậu khen làm tôi đỏ mặt, gãi lỗ tai.

- Cậu chủ nói đùa, tôi không biết chữ, lại là tiện tịch, làm gì được cơ chứ? Hầu gái của gia đình giàu có ai cũng sạch sẽ xinh xắn, còn phải biết chải đầu làm điểm tâm. Đứa chạy việc còn phải biết ăn nói, mở miệng có thể nói lời hay.

- Cha tôi bảo người không ruộng, không tiền còn mang tiện tịch chỉ làm ăn mày được thôi. Đi quen một đám ăn mày khác mới không bị ai bắt nạt. Con gái lại không dám ra khỏi nhà, ở đâu cũng có người xấu, phải cẩn thận kẻo bị bán vào kỹ viện.

- Tôi vẫn chờ đến khi mình mười bốn tuổi, xin vào lầu Thiên Hương làm việc. Tiểu nhị lầu Thiên Hương phải mười bốn tuổi trở lên, chỉ còn hai tháng nữa.

Lương Đình nhắm mắt, để hờ tay lên cổ tay tôi.

- Được mà, cô tính tình lương thiện, là đứa trẻ ngoan, sẽ không khó vậy đâu.

Nhắc đến cũng lạ, rõ ràng cậu nhỏ hơn tôi một tuổi, mở miệng ra lại có phong phạm người đọc sách.

Sáng sớm, lều cháo vừa mở, mười mấy ăn mày tranh nhau xông vào, làm cả nhà người phát cháo giật bắn mình, bảo sao hai năm nay nạn dân ngày một đông thế này.

Bát cháo kia quá nóng, Lương Đình cầm cũng không cầm nổi, học người khác ghé miệng húp xì xụp, nhịn nóng cố nuốt xuống.

Mùa đông năm đó rất lạnh, cái tay gãy của Lương Đình đau đến chết đi sống lại, tuyết vừa rơi một cái cả người cậu phát sốt, nóng bừng bừng như hòn than.

Tôi lục gầm giường kiếm được nửa lượng bạc, cõng cậu chạy đi tìm thầy thuốc ở Nhân Tâm đường. Thầy thuốc chỉ bảo tôi chuẩn bị quan tài đi, vết thương đã thành mủ độc, muốn trị khỏi phải có hai vị thuốc quý, giá đến hai mươi lạng bạc.

Tôi ngồi co quắp trên tuyết, kêu trời không thấu, kêu đất không hay.

Lương Đình nằm trên lưng tôi còn cười được.

- Đậu Hũ, cô cứu tôi đúng là lỗ vốn. Chờ tôi chết rồi, cô cũng chôn tôi trên núi nhé, để tôi và người nhà được chôn cùng chỗ. Tôi xuống dưới đất, xin công đức cho cô và chú, phù hộ cô sớm phát tài.

Ta giận run cả người, trở tát cho cậu một cái, lần đầu to tiếng mắng:

- Chết gì mà chết! Lúc nào cũng chỉ muốn chết, sao không nghĩ phải sống thế nào hả!

- Cậu xem người trên đường này, có ai không khổ hơn cậu? Người số khổ trên đời đông như kiến, làm gì có ai mỗi ngày đều muốn chết! Ăn xin, làm xiếc, dọn phân, có ai không cắn răng nhịn nhục sống tiếp chứ?

- Người ta bảo ăn một miếng cơm, báo đáp cả đời. Tôi ăn hơn ngàn miếng cơm nhà cậu, còn lớn hơn cậu một tuổi, cậu không chê thì cứ gọi tôi một tiếng chị.

- Có khó có khổ hơn nữa, chị cũng chữa được tay cho em mà.

Nước mắt nóng bỏng của cậu chảy lên cổ tôi, nhưng Lương Đình không gọi tôi.

Tôi ngoái lại nhìn, cậu đã sốt đến ngất đi rồi.