Chương 4 - Nhuyễn Ngọc
4.
Cậu chủ không nói gì suốt ba ngày trời. Lúc nhìn bức tường vàng đối diện giường khóc gào không thôi, khóc mệt thì lại lặng lẽ rơi nước mắt.
Suốt ba ngày, cậu chỉ húp hai bát nước cơm loãng.
Cha tôi chép miệng lắc đầu:
- Đứa bé này quyết tâm muốn chết, sợ không nuôi nổi.
Tôi nghe nói người ta chết dễ lắm. Một đoạn dây thừng, một cái kéo sắc, hoặc cắn lưỡi một cái là đi rồi. Mấy hôm đó tôi không dám chợp mắt, mỗi ngày đều lắc người cậu chủ, xem cậu còn thở không.
- Bé ăn mày, cô làm gì vậy?
Cậu đói bụng, hơi thở mỏng manh nhưng vẫn thông minh đoán được tôi nghĩ gì, cười thảm nói:
- Hài cốt cha mẹ, anh chị tôi còn ở bãi tha ma chờ tôi đi nhặt, sao tôi dám chết?
Cậu chủ nhỏ chống mình ngồi dậy, đau run cả người, còn chắp tay vái lạy tôi.
Cậu hỏi tôi:
- Xin hỏi ân nhân tên gì?
Cậu chủ nhỏ hỏi tên của tôi?
Tim tôi đập bình bịch, vội phủi bụi trên người, đứng thẳng lên.
- Tôi… tôi là Đậu Hũ.
- Đậu Hũ…
Tôi cười hì hì:
- Cha tôi nói ông là người nghèo kiết xác không mua nổi gà, không ăn nổi cá, thích nhất là đậu hũ, ba văn một miếng to, trẻ con đang bú sữa cũng ăn được.
Đậu hũ là món ngon trong khu ổ chuột.
Cha tôi bảo tôi là báu vật ông tìm được trong khu ổ chuột.
Ngày chúng tôi chôn cất cho người nhà họ Trình, cậu chỉ cuối cùng có thêm hai phần sức sống.
Cậu bảo:
- Đậu Hũ đừng gọi tôi là cậu chủ nữa, tôi là con trai của tội dân, sợ mang phiền phức đến cho hai người, hãy gọi tên tôi thôi.
- Tên tôi là Lương Đình.
Tôi và cha nghệt mặt, bảo được thôi.
Về nhà, Lương Đình nhấc tay, viết một chữ lên tường.
Tôi cũng nhận ra chữ kia.
Đó là ngày đầu Lương Đình sống lại, cũng là ngày đầu cậu học làm ăn mày.
Cậu chủ không nói gì suốt ba ngày trời. Lúc nhìn bức tường vàng đối diện giường khóc gào không thôi, khóc mệt thì lại lặng lẽ rơi nước mắt.
Suốt ba ngày, cậu chỉ húp hai bát nước cơm loãng.
Cha tôi chép miệng lắc đầu:
- Đứa bé này quyết tâm muốn chết, sợ không nuôi nổi.
Tôi nghe nói người ta chết dễ lắm. Một đoạn dây thừng, một cái kéo sắc, hoặc cắn lưỡi một cái là đi rồi. Mấy hôm đó tôi không dám chợp mắt, mỗi ngày đều lắc người cậu chủ, xem cậu còn thở không.
- Bé ăn mày, cô làm gì vậy?
Cậu đói bụng, hơi thở mỏng manh nhưng vẫn thông minh đoán được tôi nghĩ gì, cười thảm nói:
- Hài cốt cha mẹ, anh chị tôi còn ở bãi tha ma chờ tôi đi nhặt, sao tôi dám chết?
Cậu chủ nhỏ chống mình ngồi dậy, đau run cả người, còn chắp tay vái lạy tôi.
Cậu hỏi tôi:
- Xin hỏi ân nhân tên gì?
Cậu chủ nhỏ hỏi tên của tôi?
Tim tôi đập bình bịch, vội phủi bụi trên người, đứng thẳng lên.
- Tôi… tôi là Đậu Hũ.
- Đậu Hũ…
Tôi cười hì hì:
- Cha tôi nói ông là người nghèo kiết xác không mua nổi gà, không ăn nổi cá, thích nhất là đậu hũ, ba văn một miếng to, trẻ con đang bú sữa cũng ăn được.
Đậu hũ là món ngon trong khu ổ chuột.
Cha tôi bảo tôi là báu vật ông tìm được trong khu ổ chuột.
Ngày chúng tôi chôn cất cho người nhà họ Trình, cậu chỉ cuối cùng có thêm hai phần sức sống.
Cậu bảo:
- Đậu Hũ đừng gọi tôi là cậu chủ nữa, tôi là con trai của tội dân, sợ mang phiền phức đến cho hai người, hãy gọi tên tôi thôi.
- Tên tôi là Lương Đình.
Tôi và cha nghệt mặt, bảo được thôi.
Về nhà, Lương Đình nhấc tay, viết một chữ lên tường.
Tôi cũng nhận ra chữ kia.
Đó là ngày đầu Lương Đình sống lại, cũng là ngày đầu cậu học làm ăn mày.