Chương 3 - Nhật Ký Xuyên Thời Gian
Tôi bèn kể việc mình sắp đi xem mắt cho Cố Thời An nghe.
Cậu có vẻ ghen bóng ghen gió, buông lời như châm chọc:
“Bên cô, một trăm năm sau rồi mà vẫn thịnh hành kiểu hôn nhân sắp đặt thế à? Bên tôi giờ đều cổ vũ tự do yêu đương, chứ hôn nhân ép buộc thì chẳng có kết cục gì tốt đẹp.”
Tôi dở khóc dở cười:
“Tôi chỉ đi gặp gỡ ăn bữa cơm, chứ có phải lập tức kết hôn đâu.”
“Ờ.”
10.
Trong buổi gặp mặt xem mắt, đối phương thoạt nhìn có vẻ lịch sự, vậy mà mở miệng câu đầu tiên đã bảo:
“Cô là giáo viên đúng không? Nghề này cũng được đấy, bảo thủ, ổn định, không như mấy loại phụ nữ lăng nhăng ngoài kia.”
“Sau này sinh con xong, cô có thể phụ trách luôn việc giáo dục cho bọn trẻ. Tôi không đòi hỏi nhiều, hai trai một gái là đủ. Tôi mong cô biết lo toan việc nhà, phụ nữ ấy mà, cứ yên phận ở nhà lo hậu phương, để đàn ông chúng tôi xông pha ngoài xã hội…”
Nghe anh ta nói, tôi nhẫn nhịn hết lần này đến lần khác, cuối cùng không chịu nổi, cầm nguyên bình nước trên bàn dội thẳng vào đầu anh ta.
“Ai không biết lại tưởng có ông tổ thời nhà Thanh chui từ dưới đất lên chứ.”
Mặt anh ta sầm lại, càng lúc càng đen.
Ở trường, tôi kể chuyện xem mắt cho các thầy cô trong văn phòng nghe. Thầy Lâm bỗng xích lại gần, nói:
“Cô Thẩm, cô thấy tôi thế nào? Nếu không có ai, chúng ta thử… tạm bợ với nhau được không?”
Tôi nhìn mái tóc bóng dầu của thầy, á khẩu, không nói nên lời:
“Hay là… thôi bỏ qua đi thầy ạ.”
Thầy Lâm thoáng vẻ thất vọng.
Thấy Cố Thời An hỏi tôi buổi xem mắt ra sao, tôi bèn kể cho cậu nghe quá trình ấy. Cậu có vẻ vui ra mặt:
“Tạt nước hay lắm. Tôi đã bảo rồi, hôn nhân sắp đặt không đáng tin. Trường tôi dỡ bỏ lệnh cấm nữ sinh cũng đã thu nhận nhiều nữ học viên ưu tú. Mọi người đều cổ vũ nam nữ bình đẳng, phụ nữ cũng có thể đảm đương một nửa bầu trời.”
Tôi nắm được từ khóa trong câu cậu:
“Thế cậu có cô bạn nữ nào vừa mắt không?”
Tôi tính nhẩm, Cố Thời An giờ cũng hai mươi hai rồi, ở thời đại đó, gia đình hẳn cũng sắp thúc giục chuyện cưới xin.
“Chúng tôi chỉ là bạn học đơn thuần thôi. Cha mẹ tôi thì viết thư nhắc nhở, bảo sau khi tôi tốt nghiệp nên về nhà tìm một đối tượng phù hợp, sớm định đoạt chung thân đại sự, sớm kết hôn sinh con.”
Cố Thời An qua quýt:
“Tôi nói không vội. Cách mạng còn chưa thành công, lo đâu mấy chuyện yêu đương.”
“Đúng thế.” Tôi cười, “Tư tưởng giác ngộ của cậu cao nhỉ.”
“Chứ sao, chẳng phải xem tôi được ai dạy dỗ đâu.” Cậu đắc ý.
Hôm sau, vừa mở cuốn sổ ra, tôi đã thấy tin nhắn mới của cậu:
“Hôm nay là mùng 18 tháng 9 năm Dân Quốc thứ 20. Tôi nghe tin nói vùng Đông Bắc thất thủ rồi.”
“Đường sắt bị đánh sập, tàu hỏa ngưng chạy, ai nấy đều hoảng loạn. Thư tôi gửi về nhà mấy hôm trước giờ chưa thấy hồi âm. Tôi đang tranh thủ đêm chạy về nhà gấp.”
Sau khi cậu về nhà, mấy ngày liền không thấy tin nhắn mới. Tôi thấp thỏm không yên, ngày nào cũng mở nhật ký ra xem, rồi lại thất vọng gập lại.
Tôi cố nhắn:
“Cố Thời An, cậu vẫn ổn chứ?”
“Có chuyện gì xảy ra không?”
Lần trước, dù cậu cố tình “làm bộ” để tôi sốt ruột, nhưng vẫn trả lời ngay khi tôi nhắn. Lần này lại chẳng thấy chút động tĩnh nào.
Mãi đến ngày thứ năm, cuối cùng cậu cũng đáp lại, trên đó chỉ có một hàng chữ:
“Thẩm Khinh Khinh, tôi không còn nhà để về nữa rồi.”
11.
Tim tôi như lỡ mất một nhịp, tôi vội viết: “Đã xảy ra chuyện gì vậy?”
Cố Thời An kể lại những gì đã xảy ra dạo gần đây. Dù cậu ra sức che giấu cảm xúc, tôi vẫn có thể nhận ra nét chữ run rẩy.
Cậu phát hiện lâu rồi gia đình không hồi âm, bèn về sớm. Tàu hỏa bị ngừng chạy, chiến sự triền miên, cậu vất vả lắm mới về tới nhà.
Vừa bước tới cửa phủ họ Cố, cậu nhìn thấy cảnh tượng hoang tàn.
Thi thể của phụ thân nằm ngay trước cửa chính, trên người mấy vết đạn. Mẫu thân thì bị treo ngược trên xà, bụng bị kẻ ác rạch nát, máu lênh láng khắp nơi, giờ đã khô lại.
Cố Thời An lúc đó lập tức sụp đổ.
Cậu tìm thấy một người hầu còn sống trong phủ, người ấy khóc lóc kể rõ ngọn nguồn:
Hóa ra từ một năm trước, việc kinh doanh dược liệu của nhà cậu đã bị một nhóm thương nhân ngoại quốc dòm ngó, nhưng phụ thân cậu có nguyên tắc, nhất định không hợp tác.
Ban đầu, bọn chúng chỉ dám dùng thủ đoạn âm thầm; đến khi biến cố nổ ra, chúng dẫn lính bao vây phủ họ Cố, ép cha cậu giao kho dược liệu.
Ông thà chết chứ không chịu khuất phục, thế là chúng nổ súng liên hồi. Mẫu thân nhìn cảnh tượng ấy liền tuyệt vọng treo cổ tự vẫn, nhưng chúng vẫn không buông tha, còn tàn nhẫn rạch bụng bà.
Nghe nói bà đã mang thai được mấy tháng, định đợi Cố Thời An về thì cho cậu một niềm vui bất ngờ.
“Vậy em gái cậu đâu?” Tôi run rẩy hỏi.
“Chết rồi.”
Cố Thời An không tìm được em trong phủ; người hầu bảo trước khi xảy ra chuyện, mẹ cậu lén đưa cô bé trốn ra cửa sau. Bà nghĩ làm vậy sẽ giúp con bé có đường sống, nhưng không ngờ bên ngoài đường xá cũng bị quân địch chiếm đóng.
Cố Thời An lần theo phố xá tìm kiếm, lòng vẫn le lói chút hy vọng.
Cuối cùng, cậu đi đến một con hẻm, thấy la liệt xác người. Nhìn thi thể ấy, cậu mất hết lý trí.
Đó chính là cô em gái mà cậu hết mực cưng chiều, trên người không mảnh vải, đôi mắt trợn trừng nhìn lên bầu trời hẻm tối tăm.
Những dấu vết để lại cho thấy trước khi chết con bé đã phải chịu đựng những giày vò kinh khủng thế nào.
“Nó mới mười lăm tuổi thôi! Một lũ cầm thú khốn nạn!”
Chữ của Cố Thời An như tứa máu, nét bút như xé lòng.
“Tất cả là lỗi của tôi, tất cả là lỗi của tôi…”
Cậu lặp đi lặp lại câu này.
“Giá như tôi về sớm hơn… Tại sao chỉ còn mình tôi phải sống tủi nhục trên cõi đời này?”
Tôi vốn biết giai đoạn lịch sử đó tàn khốc thế nào, nhưng khi tận mắt đọc những dòng chữ này, những câu chuyện dã man kia, tôi vẫn đau thắt đến nghẹt thở. Tôi không dám tưởng tượng Cố Thời An giờ đây đau khổ đến mức nào.
Nước mắt làm mắt tôi mờ đi. Lúc giơ tay, tôi nhận ra trên trang giấy dường như đã có một vệt ướt khác.
Chắc hẳn khi Cố Thời An viết những dòng này, nước mắt cậu cũng rơi ướt trang giấy.
Dường như nước mắt của chúng tôi, cách nhau cả trăm năm, giờ lại hòa vào nhau trong khoảnh khắc này.
12.
Cố Thời An cõng xác em gái về nhà, một mình lo tang sự cho cả gia đình, sau đó suy sụp rất lâu.
Tôi nghĩ đủ mọi cách muốn an ủi cậu ấy, mong cậu ấy phấn chấn lại, nhưng không có tác dụng.
Tôi hiểu được tâm trạng của cậu, bởi ai gặp phải việc như vậy cũng khó lòng chấp nhận.
Năm xưa, khi tôi quỳ trong linh đường của mẹ mình, tôi cũng từng cảm thấy như bị cả thế giới ruồng bỏ.
May mắn hơn Cố Thời An ở chỗ, tôi sống trong thời bình.
Một buổi chiều nọ, cuối cùng Cố Thời An cũng lấy lại tinh thần.
Chỉ thấy trên trang nhật ký mới viết rằng:
“Thẩm Khinh Khinh, tôi quyết định nhập ngũ.”
Tim tôi bỗng nặng trĩu, nhưng xem ra với tính cách của Cố Thời An, tôi đã sớm đoán được cậu nhất định sẽ chọn con đường này.
Cậu có hoài bão, có lý tưởng, lại chẳng chịu lùi bước, thêm mối hận muốn báo thù cho gia đình.
Tôi biết con đường ấy sẽ gian nan trắc trở, chỉ hơi sơ sẩy là mất mạng nơi chiến trường.
Nhưng tôi không thể khuyên cậu từ bỏ.
Cuối cùng, chỉ có thể hóa thành một câu ngắn ngủi:
“Cố Thời An, tôi chỉ mong cậu được bình an.”
Bình an, ở thời đại ấy, là một điều xa xỉ nhất.
13.
Năm Dân Quốc thứ 22
“Đây là lần đầu tiên tôi ra chiến trường, viên đạn sượt qua tai, hiểm nguy suýt nữa thì xong đời. Tôi nghĩ chắc là nhờ cha mẹ và em gái phù hộ.”
Năm Dân Quốc thứ 23, tháng Mười
“Nghe nói chúng tôi sắp bắc tiến hội quân, sẽ phải đi một chặng đường rất dài.”
“Trong hàng ngũ có rất nhiều đứa trẻ còn nhỏ hơn tôi, đa phần là những đứa mồ côi. Người thân chúng đều chết trong khói lửa chiến tranh, thế nhưng ý chí của bọn trẻ ấy còn kiên cường hơn tôi nhiều, khiến tôi tự thấy hổ thẹn.”
“Chúng tôi đã hành quân đến một ngọn núi tuyết cao hơn bốn nghìn mét so với mực nước biển. Mực nước trong bình mực của tôi đã đóng băng, phải ủ lâu trong ngực áo mới có thể gắng gượng viết cho cô được dăm ba chữ.”
“Có một nữ binh trong đội lấy ra một nắm ớt, chúng tôi mỗi người nhai một quả, không ngờ cũng đỡ lạnh hơn hẳn.”
“Bọn họ hỏi tôi vì sao hễ dừng chân nghỉ là tôi lại giở sổ ra viết, tôi nói tôi đang viết nhật ký. Họ cười trêu, nói tôi đang che giấu, chắc là viết thư tình cho người thương thì có.”
Những dòng ghi chép của Cố Thời An khi đậm khi nhạt, trông như cậu viết rất khó nhọc.
Năm Dân Quốc thứ 24, ngày 10 tháng Bảy
“Thẩm Khinh Khinh, tôi đã 27 tuổi rồi, bằng tuổi cô luôn.”
Nhìn câu này, tôi bồi hồi như cách cả một kiếp. Ở dòng thời gian của cậu, chúng tôi đã quen biết nhau lâu đến vậy rồi.
Giở lại mấy trang trước, khi Cố Thời An 17 tuổi, chuyện gì to nhỏ cũng muốn cho tôi biết.
Đến năm 27 tuổi, cậu đã học được cách nói tránh, rất ít khi kể về những khó khăn, gian khổ trên đường hành quân, chỉ thỉnh thoảng chia sẻ đôi chuyện vui.
Cậu không muốn tôi lo lắng, nhưng tôi thừa hiểu con đường ấy gian nan, cậu chỉ đang gắng cười trong khổ sở.
Tôi không thể tiết lộ quá khứ – tương lai, cũng chẳng thể xoay chuyển lịch sử, chỉ có thể liên tục dặn dò cậu rằng: “Nhất định phải sống thật tốt.”
Năm Dân Quốc thứ 26, ngoại bang xâm lược toàn diện Trung Hoa, thành Nam Kinh thất thủ, cả nước khóc than.
“Chúng tôi sắp ra tiền tuyến. Hôm nay có một chiến sĩ trẻ rụt rè hỏi tôi: ‘Liệu chúng ta có thắng được không?’
“Tôi chợt nhớ đến lời cô kể về Trung Quốc một trăm năm sau, núi sông vẫn còn, quốc thái dân an. Điều đó chứng tỏ chúng ta nhất định sẽ thắng, đúng không?”
Tôi nén cơn nghẹn ngào, đáp lại cậu:
“Sẽ thắng! Tất cả rồi sẽ ổn, mặt trời đỏ phương Đông chắc chắn sẽ rực rỡ ló dạng.”
14.
Sau khi Cố Thời An ra tiền tuyến, cậu không thể thường xuyên liên lạc với tôi.
Nghe cậu kể, cậu luôn mang cuốn nhật ký trong ngực áo. Mỗi lần sống sót trở về từ chiến trường, cậu đều viết vài chữ báo bình an cho tôi.
“Ngày 23 tháng 9 năm Dân Quốc thứ 27, tôi vẫn còn sống.”
“Ngày 28 tháng 9 năm Dân Quốc thứ 27, tôi vẫn còn sống.”
“Ngày 2 tháng 10 năm Dân Quốc thứ 27, tôi vẫn còn sống.”