Chương 4 - Nhật Ký Xuyên Thời Gian
15.
Mặc dù vậy, tôi vẫn thấp thỏm, sợ rằng sẽ có một ngày mở cuốn sổ ra và không còn thấy tin tức của Cố Thời An nữa.
Hôm đó, đang trong giờ giảng, lòng tôi bỗng dâng lên một nỗi bất an khó tả, như thể không thở nổi.
Tiếng chuông hết tiết vừa reo, tôi vội chạy về văn phòng, lục trong túi lấy cuốn nhật ký ra.
Để có thể cập nhật tin tức của cậu mọi lúc, tôi luôn mang cuốn sổ theo bên mình.
Tôi lật nhanh đến trang sau cùng, không thấy dòng chữ mới nào, nhưng lại thấy trên trang giấy phủ một lớp màu đỏ nhạt như máu.
Phải chăng Cố Thời An đã bị thương?
Tôi liền viết đi viết lại, “Cố Thời An, xảy ra chuyện gì? Trả lời tôi đi!”
Mãi nửa ngày sau, trên sổ mới hiện lên ba chữ:
“Còn sống đây.”
Tôi nhất thời thở phào nhẹ nhõm, “Cậu làm tôi suýt chết khiếp, biết không hả!”
“Chỉ bị thương nhẹ thôi, không sao.”
Có lẽ biết tôi đang sợ hãi, Cố Thời An còn giở giọng bông đùa:
“Thẩm Khinh Khinh, lá gan của cô sao bé thế.”
Tôi mắng cậu:
“Đừng nói những lời xúi quẩy. Cậu chẳng bảo muốn ngắm nhìn nước Trung Hoa mới là gì? Vậy thì sống lâu thêm chút đi!”
Cố Thời An vẽ một khuôn mặt cười, viết:
“Tuân lệnh.”
16.
Cố Thời An là một tên lừa gạt, cậu ấy vẫn là chết rồi…
Trang cuối cuốn nhật ký, cậu dùng nét chữ xiêu vẹo để viết một lá thư tuyệt mệnh.
“Khinh Khinh, gặp chữ cũng như gặp người. Xin lỗi, tôi đã lừa cô.”
“Vài ngày trước, tôi bị đạn lạc bắn trúng, gãy mất cánh tay trái, vết thương cứ thế mà hoại tử.”
“Có lẽ tôi sắp không cầm cự nổi nữa rồi.”
“Thẩm Khinh Khinh, chắc cô sẽ tha thứ cho tôi, đúng không? Tôi biết cô luôn ngoài cứng trong mềm.”
“Thời gian trôi nhanh thật đấy, thoắt cái đã mười bốn năm chúng ta quen biết nhau. Cô đã đồng hành cùng tôi gần nửa quãng đời – từ khi còn là thiếu niên ngông nghênh, đến khi trưởng thành với lý tưởng, niềm tin và những người tôi trân quý.”
“Đôi lúc tôi tự hỏi, hành trình dằn vặt, trôi dạt này, rốt cuộc sẽ kết thúc ra sao.”
“Bây giờ có thể hy sinh trên con đường cách mạng, với tôi mà nói, đã là nơi trở về tốt nhất.
Bởi tôi tin chắc rồi chúng ta sẽ giành được thắng lợi, sẽ đón bình minh. Tôi nguyện làm tia lửa nhỏ soi sáng con đường phía trước, “dẫu muôn vàn người chặn lối, tôi vẫn cứ bước tới.”
“Tôi không hối hận. Nếu được chọn lại một lần nữa, tôi vẫn sẽ đi con đường này.
Bây giờ, cuối cùng tôi có thể đi gặp cha mẹ và em gái, tôi nhớ họ lắm.
Hẳn họ cũng chẳng thể ngờ, đứa con “không ra gì” trong mắt họ ngày xưa, lại làm được bao nhiêu việc lớn lao đến vậy.
Viết đến đây, tôi mới nhận ra mình còn muốn nói thật nhiều, nhưng cơ thể tôi đã kiệt sức mất rồi.
Khinh Khinh, cô đừng buồn vì sự ra đi của tôi.
Sau khi tôi chết, cuốn nhật ký này sẽ được đưa cho một người bạn cất giữ. Đến khi trăm năm sau, cô mở nó ra, chúng ta lại có thể gặp nhau.”
“Ngày 8 tháng 12 năm Dân Quốc thứ 27, Cố Thời An”.
17.
Tôi trở về trường, trong buổi học mới nhất, tôi giảng cho các em về lịch sử cận đại.
Nhìn những gương mặt trẻ trung bên dưới, tôi nhận ra nhiều năm đã trôi qua, thế hệ của các em có lẽ không còn cảm nhận rõ rệt về giai đoạn lịch sử ấy. Có người ngơ ngác, có người tỏ vẻ không quan tâm.
Tôi khẽ thở dài:
“Cô sẽ kể cho các em nghe một câu chuyện.”
Thế rồi, tôi dùng ngôi kể thứ ba, kể sơ lược về câu chuyện của Cố Thời An.
Ban đầu, một số em vẫn khúc khích cười, nhưng càng nghe về sau, cả lớp dần trở nên lặng thinh. Đến lúc kết thúc, không gian im ắng hoàn toàn.
“Hòa bình chúng ta đang hưởng ngày hôm nay chính là kết tinh từ máu và nước mắt của biết bao thế hệ tiền nhân giống như cậu ấy—những người không ngại hi sinh tuổi trẻ, sẵn sàng dấn thân vì đất nước, ‘dám gọi nhật nguyệt đổi trời mới’.”
“Họ có thể là những cái tên không ai biết đến, nhưng chúng ta không được lãng quên.”
“Giờ đây, non sông tạm yên, đến lượt thế hệ chúng ta phải tự mình gắng sức.”
Giảng bài xong, tôi nhìn ra ngoài cửa sổ. Tán ngô đồng lay động bóng nắng, bầu trời rực rỡ, đâu đó có cánh chim bồ câu lướt qua.
18.
Sau khi Cố Thời An mất, tôi đã điên cuồng tìm kiếm đủ loại tài liệu lịch sử, nhưng không sao tìm thấy bất kỳ thông tin nào liên quan đến cậu ấy.
Những dòng chữ chúng tôi từng viết trong cuốn nhật ký cũng đang dần mờ nhạt.
Tất cả cứ như một giấc mơ hư ảo mà tôi là kẻ duy nhất bừng tỉnh.
Tôi tìm đến chỗ khi trước đã mua cuốn nhật ký, nhưng gian hàng ấy chẳng biết dời đi đâu, người bán cũng không cách nào liên lạc.
Thỉnh thoảng tôi lại mơ thấy một người đàn ông mặc quân phục màu xanh, anh ngoái đầu vẫy tay với tôi, nhưng mãi tôi không thấy rõ khuôn mặt anh.
Sau đó, tôi xin nghỉ một thời gian, đến quê nhà mà trước đây Cố Thời An từng kể, hi vọng tìm được dấu vết cho thấy cậu ấy thực sự đã tồn tại.
Nhưng nơi đó chẳng còn căn nhà cổ nào, tất cả đều biến thành những tòa nhà bê tông cốt thép.
Tôi kiếm tìm rất lâu, cuối cùng phát hiện một bảo tàng cách mạng nhỏ của địa phương.
Bước vào trong, dưới tủ kính trưng bày rất nhiều kỷ vật của những người chiến sĩ năm xưa.
Ánh mắt tôi bị thu hút bởi một chiếc đồng hồ bỏ túi cũ kỹ màu đồng.
Bên trong chiếc đồng hồ không kẹp ảnh chụp, mà có một bức vẽ chân dung cô gái bằng nét bút đơn giản.
Nét bút đã nhòe nhoẹt, nhưng tôi vẫn nhận ra đó chính là bức phác họa tôi từng vẽ bừa cho Cố Thời An trong cuốn nhật ký.
Tim tôi chợt run lên dữ dội.
Dời mắt sang cạnh bên, tôi trông thấy một tấm ảnh đen trắng cỡ một inch.
Người đàn ông trong ảnh có gương mặt cương nghị, khóe môi nở nụ cười nhàn nhạt, toát lên vẻ hào sảng tự tin.
Bên dưới chỉ có vài dòng giới thiệu vắn tắt:
“Cố Thời An, nam, 1908—1938, liệt sĩ cách mạng, hi sinh khi mới 30 tuổi.”
Trong bảo tàng rất ít khách, một nhân viên nhiệt tình bước tới giới thiệu với tôi:
“Đây là kỷ vật duy nhất của ông Cố. Khi chúng tôi đăng ký hiện vật, mọi người vẫn lấy làm lạ vì bên trong không kẹp ảnh thật, chỉ là một hình vẽ phác thảo nhỏ. Nhưng xem chừng ông ấy coi đó như bảo vật. Có lẽ đó là người yêu của ông ấy chăng.”
Nghe họ nói, tôi không kìm nổi nước mắt, cứ thế khóc ròng.
Cuối cùng, thứ còn sót lại của cậu chỉ có bộ quần áo trận rách nát, bê bết máu, cùng một chiếc đồng hồ bỏ túi.
Nhưng chí ít, điều này cũng chứng minh Cố Thời An thực sự đã tồn tại.
19.
Tôi cố nén những cảm xúc dâng trào, rời khỏi khu tưởng niệm, cứ thế bước vô định trên phố.
Cho đến khi tôi bước vào một công viên.
Chính giữa công viên, có một cây ngân hạnh cao lớn.
Lúc này đang là cuối thu, lá cây vàng ươm trải đầy trên mặt đất.
Tôi như có linh cảm gì đó, liền tiến lại gần.
Đầu ngón tay khẽ vuốt ve phần thân cây thô ráp.
Cuối cùng, tôi phát hiện ở một chỗ có khắc một hàng chữ.
Trải qua bao năm tháng, nét khắc đã mờ và méo mó nhiều, nhưng tôi vẫn nhận ra được:
“Chỉ nguyện lòng chàng như lòng thiếp, ắt không phụ tấm tình tương tư.”
“Ngày 6 tháng 2 năm Dân Quốc thứ 17, do Thẩm Khinh Khinh tự tay trồng.”
Đúng lúc đó, phía sau tôi bỗng vang lên một giọng nam:
“Khinh Khinh.”
Tôi giật mình ngoảnh lại.
*** Hoàn chính văn ***
_______
Ngoại truyện : Câu chuyện của Cố Thời An
Lần đầu tiên Cố Thời An nhìn thấy trên cuốn nhật ký bỗng dưng xuất hiện những dòng chữ lạ, cậu cứ ngỡ có ai đó chơi khăm mình.
Cậu bắt hết gia nhân trong phủ đến hỏi, nhưng không ai thừa nhận.
Cố Thời An nghĩ nát óc vẫn không hiểu nổi. Đang ngồi ngẩn ra thì bỗng trước mắt, trên trang giấy, xuất hiện chữ một cách vô duyên vô cớ.
Cậu sợ tới mức kêu lên:
“Trời ơi, có ma thật rồi!”
Nhưng hóa ra không phải ma. Cô ấy tên là Thẩm Khinh Khinh, đến từ một trăm năm sau.
Việc này kỳ diệu ngoài sức tưởng tượng. Thường ngày, Cố Thời An vốn thích mấy loại sách vở huyền huyễn, không ngờ chính mình cũng có ngày gặp phải chuyện hoang đường như thế.
Chỉ có điều, giữa hai người có sự chênh lệch thời gian. Mỗi lần cậu muốn đợi hồi âm của Thẩm Khinh Khinh, thường phải đợi rất lâu mới thấy được chữ cô viết.
Cậu thiếu niên mười mấy tuổi lần đầu tiên nếm trải cảm giác “như có lửa đốt trong lòng”.
Cậu không còn hứng thú ra phố ăn chơi lêu lổng hay tụ tập với đám bạn xấu nữa, bởi nói gì thì nói, đâu có thú vị bằng việc trò chuyện cùng Thẩm Khinh Khinh?
Cậu rất muốn gặp mặt Thẩm Khinh Khinh.
Nhưng tính đi tính lại, nếu cậu sống tới một trăm tuổi, Thẩm Khinh Khinh khi ấy mới mấy tuổi đầu?
Một ông lão với một cô gái trẻ, nghĩ thôi đã thấy kỳ cục.
Cậu biết giữa mình và cô ấy chẳng thể có khả năng gì, nhưng vẫn không ngăn nổi trái tim rung động.
Cậu lén cắt trộm bức tranh phác họa mà Thẩm Khinh Khinh vẽ, tìm mãi không biết cất ở đâu, cuối cùng phát hiện bỏ vào chiếc đồng hồ bỏ túi là vừa khéo nhất.
Khi Thẩm Khinh Khinh hỏi về chuyện này, cậu bèn viện cớ qua loa, thực tình thì chột dạ muốn chết.
Đám bạn thấy cậu ngày nào cũng ôm cuốn nhật ký cười ngẩn người, liền bảo cậu “bị tẩu hỏa nhập ma” rồi.
Có đứa bạn thân tưởng cậu đang thầm thương trộm nhớ ai, bèn bày kế tệ hại, xúi cậu dùng thơ tình để bày tỏ.
Cố Thời An cũng thấy thú vị, bèn lấy một câu thơ để ngầm gửi gắm lòng mình.
Nào ngờ Thẩm Khinh Khinh thẳng thừng phớt lờ cậu.
Một lần phớt lờ là ba năm trời.
Cố Thời An đành “ngoan” trở lại.
Cậu hiểu bản thân đã quá đường đột, vì giữa hai người cách nhau quá nhiều điều.
Cậu quay sang học hành chăm chỉ, thi lên đại học, kết giao với một nhóm trí thức trẻ, được khai sáng bởi biết bao tư tưởng mới.
Cậu bấy giờ mới ngộ ra bản thân trước kia đúng là chỉ biết lêu lổng.
Vừa nỗ lực cải tà quy chính, ngày nào cậu cũng phải dăm bảy lượt mở cuốn sổ nhật ký ra xem.
Đi dự buổi tuần hành về, xem, Thẩm Khinh Khinh vẫn không trả lời.
Viết xong bài tập, xem, vẫn không.
Trước lúc ngủ, lại xem ,vẫn chẳng có động tĩnh.
Cho đến khi cậu nghĩ rằng có lẽ mọi chuyện sẽ chấm dứt ở đây, cậu lại phát hiện mấy dòng chữ mới xuất hiện.
Quả nhiên, Thẩm Khinh Khinh vẫn để ý đến cậu.
Họ lại khôi phục mối liên lạc như trước.
Nhưng cuộc sống yên bình ấy chẳng mấy chốc đã bị cuộc xâm lược và những tai ương ập đến phá vỡ.
Có rất nhiều chuyện cậu không kể cho Thẩm Khinh Khinh nghe, ví dụ như lần đầu ra chiến trường, viên đạn sượt qua tai khiến máu tuôn xối xả, khi ấy tai trái của cậu đã bị điếc.
Ví như trên đường Trường Chinh, mọi thứ đâu hề nhẹ nhàng như cậu từng nói. Cậu bị cước (đông lạnh) rất nặng, chỉ có thể ăn vỏ cây cầm hơi, suýt nữa chết đói. Đúng lúc đó, những dòng chữ mới của Thẩm Khinh Khinh lại trở thành nguồn an ủi cuối cùng giúp cậu gắng gượng.
Bức phác họa đơn sơ ấy, cậu luôn cẩn thận giữ trong chiếc đồng hồ bỏ túi. Người khác tò mò hỏi, cậu chỉ cười đáp: “Đây là người yêu mà tôi chưa từng được gặp.”
Hay khi chứng kiến những người chiến hữu thân thiết lần lượt hy sinh, cậu đã chịu đả kích tinh thần nghiêm trọng, đến nỗi không còn cầm nổi súng. Tình trạng ấy khiến cậu sớm biết rằng cái chết có lẽ sẽ chẳng còn xa.
Vào lần cuối cùng, để yểm trợ đồng đội rút lui, một quả bom rơi ngay bên cạnh cậu. Theo phản xạ, cậu xoay người che lấy cuốn nhật ký bên ngực, nhưng nửa thân người đã bị sức nổ xé toạc, máu thịt be bét.
Cậu được cáng về chữa trị, nhưng với vết thương như thế thì khó thể qua khỏi. Trong cơn mê man, cậu gắng dùng chút sức tàn cùng cánh tay còn lại để viết bức thư cuối cùng gửi cho Thẩm Khinh Khinh.
Thực ra cậu còn bao điều muốn nói với cô, nhưng đành bất lực.
Giây phút nhắm mắt, cậu dường như trông thấy cảnh thái bình thịnh thế mà Thẩm Khinh Khinh từng mô tả, một cô gái mặc bộ quần áo giản dị, đứng đó mỉm cười với cậu.
Nếu có kiếp sau, ước gì cậu và Thẩm Khinh Khinh đều sinh ra trong cùng một thời đại hòa bình.
“Ta sinh, nàng chưa sinh;
Nàng sinh, ta đã mất.
Hận chẳng thể đồng sinh,
Sớm tối được kề bên.”
End