Chương 4 - Hoàng Lệ Giam Cầm

Minh Đức năm thứ mười, đêm trăng rằm.

Những năm tháng tưởng chừng đã chết lặng bỗng như sống lại.

Trên Kim Loan điện, các tướng luận công ban thưởng:

Lục gia đại lang Lục Mặc Bình, được phong Hộ Quốc Đại tướng quân.

Xét thấy phu nhân họ Thẩm đang mang thai, đặc biệt lưu lại kinh thành, ban chức quan nhị phẩm.

Lục gia nhị lang Lục Mặc An, được phong Chủ soái quân Tây Bắc, thống lĩnh biên phòng, không triệu cũng có thể hồi kinh.

Hôm ấy, trong yến tiệc Trung thu, Hoàng đế cùng quần thần uống rượu trước triều.

Ta bị Diệp Hiền phi  kéo đi, bước từng vòng quanh con đường dài trong cung.

Tiếng canh vọng từng hồi, đêm dần về khuya.

Yến tiệc náo nhiệt trong cung vừa mới kết thúc.

Ta cùng Diệp Hiền phi đứng ở phía xa, lặng nhìn triều thần lần lượt bước ra, men theo bậc thềm bạch ngọc, chậm rãi rời khỏi cổng cung.

Một người. Hai người. Ba người…

Dòng người dần thưa thớt, ta lại không dám chớp mắt.

Chỉ mong trời cao đất rộng, chư thần chư Phật thương xót, cho ta được gặp người ấy một lần.

Chỉ một lần thôi, chỉ một lần.

Tín nữ kiếp này không dám cầu vọng, chỉ nguyện người ấy từng năm được bình an.

Chỉ mong đời này lại được gặp mặt, để xoa dịu sương lạnh trong lòng ta và chàng.

Ta trông ngóng, ta mong mỏi, ta chờ đợi…

Cho đến cuối cùng, dòng người đã tan hẳn.

Khăn tay của Hiền phi bị vò nát thành một khối, nhưng nàng vẫn như ta, đứng ngẩn ngơ nhìn về phía xa.

Nhìn, mong, chờ…

Chờ đến khi con đường cung đạo vừa nhộn nhịp đã lại trở về vẻ lạnh lẽo như ngày thường.

Chờ đến khi ánh trăng nghiêng ngả, tiếng ve thu đã sớm im bặt.

Chờ đến khi lòng ta như bị nhúng trong dầu sôi, bị thiêu đốt hết lần này đến lần khác.

Hình bóng quen thuộc trong ký ức cuối cùng cũng bước ra từ trong điện, chậm rãi mà đường hoàng.

Từng bước, từng bước, cùng người huynh trưởng sóng vai bước xuống bậc thềm.

“Lục Mặc An…”

Ta cắn chặt cánh tay mình, cố nén tiếng gọi như muốn bật ra từ sâu thẳm trong lòng.

Nhìn người ấy chầm chậm bước về phía cổng cung, vài lần ngẩng đầu đưa mắt tìm kiếm, nhưng chỉ khoác lên mình ánh trăng tịch mịch.

Hồi lâu, bóng lưng quen thuộc ấy như cảm giác được điều gì, đột ngột quay đầu lại.

Ánh mắt chất chứa nỗi đau âm ỉ và niềm nhớ nhung tha thiết, rơi thẳng về phía  con đường cung đối diện.

Cũng rơi thẳng vào người ta.

Dưới màn đêm mờ ảo, ta không thấy rõ nét mặt của chàng.

Nhưng lại cảm nhận rõ ràng đến đau lòng:

Thiếu niên từng ý khí phong lưu, nay đã điềm đạm, trưởng thành.

Chàng là Lục Mặc An!

Là Lục Mặc An đã từng thề không cưới ai ngoài ta!

Là người mà ta từng thề không gả cho ai ngoài chàng!

Ta và chàng đã từng hẹn ước bạc đầu, chàng từng hứa kết tóc phu thê.

Nhưng ai có thể ngờ được:

Gặp lại trong đời, lại cách nhau trọn mười năm.

Mười năm, thật quá dài.

Dài đến mức rượu đào mà chàng dạy ta ủ ngày nào, càng ủ càng cay, đã chẳng còn chứa được niềm vui của đêm tân hôn nơi nhân gian.

Dài đến mức những cánh đào trong Tê Ninh cung đã bao lần nở rồi tàn, tàn rồi rụng, chỉ để hóa thân thành lễ tế cho năm tháng.

Dưới ánh trăng, ta và chàng cách nhau mười năm sương gió, lặng lẽ nhìn nhau từ xa.

Không dám tiến một bước, cũng không nỡ lùi một bước.

Hồi lâu, chàng run run đưa tay lên cổ áo, cẩn thận lấy ra một thứ gì đó.

Ánh trăng sáng tựa dòng nước.

Một chiếc ngọc bội bình an, trong suốt ôn hòa, được chàng đặt trong lòng bàn tay, phủ lên chút sương trắng lạnh giá.

Bỗng chốc, ta chỉ cảm thấy lòng mình tan vỡ thành từng mảnh.

Những đau đớn tưởng chừng ngập trời ấy tựa móng vuốt sắc bén, xé rách trái tim ta.

Thứ chàng cầm trên tay, chính là chiếc ngọc bội bình an mà năm ấy ta nhờ đại tỷ mang ra khỏi cung.

“A Niệm bình an, chính là bình an của ta.”

“A Niệm trọn đời mong nhớ, chỉ dành cho Mặc An.”

Ta lảo đảo quay người rời đi, chỉ còn lại những ngón tay siết chặt trong lòng bàn tay, cơn đau lan ra khắp thân thể.

Chỉ còn lại nơi nhân thế, đôi lứa hữu tình phải chia lìa trong nỗi hận khôn nguôi, đời này kiếp này chẳng thể gặp lại nhau.

14

Đêm Trung thu năm ấy, ta kéo Diệp  Hiền phi  cùng uống rượu suốt một đêm trong Tê Ninh cung.

Khi men rượu đã ngà ngà, Lâm Thục phi, người vốn chẳng bao giờ rời khỏi cung, lại bất ngờ đẩy cửa bước vào trong ánh trăng.

Dung nhan nàng lạnh như sương, ánh mắt thanh tuyệt, cả thân hình toát ra vẻ lạnh lẽo của tiết trời cuối đông.

Chỉ có cây trâm mẫu đơn hồng cài trên tóc, khẽ tỏa chút hơi ấm mong manh.

“Sao vậy, rượu của Tê Ninh cung, Hiền phi có thể uống, chẳng lẽ Lâm Thanh Sương ta lại không thể?”

Đêm ấy, đèn trong Tê Ninh cung sáng rực.

Ta ôm lấy vò rượu, nghe Thục phi kể chuyện giang hồ ân oán khói lửa, kể về mưa bụi vương vấn nơi Giang Nam.

Kể mãi, cuối cùng nàng nói:

“Nếu một ngày nào đó ta có thể rời cung, nhất định sẽ đến Giang Nam tìm một mảnh sân nhỏ, trồng đầy thược dược.”

“Đúng vậy, trồng đầy thược dược, sáng sớm tưới nước bón phân, chiều tà thì đối ẩm chuyện trò.”

Nhưng vừa nói, ánh mắt nàng đột nhiên trùng xuống, để lại vẻ lạnh lẽo tựa tro tàn.

“Chẳng biết kiếp này, còn có thể cùng nó đối ẩm chuyện trò nữa hay không…”

Hiền phi cầm chiếc chân ngỗng ngâm rượu, loạng choạng đứng dậy, cười trêu nàng quá ngốc nghếch:

“Thục phi chắc say rồi, làm gì có chuyện ngồi uống rượu với thược dược”

Thục phi không đáp, chỉ lặng lẽ bước ra ngoài, bẻ một cành cây, múa một bài kiếm ngay tại đó.

Dưới gốc quế, nàng với dáng vẻ thanh tao, kiên cường tựa nữ hiệp, hoàn toàn không thuộc về chốn thâm cung này.

Đáng lẽ nàng phải là người phiêu bạt giang hồ, tiêu dao tự tại.

Khi bài múa kết thúc, Hiền phi đã hoàn toàn say khướt.

Nàng cầm chiếc chân ngỗng mắng lớn:

“Phù Chiêu, đồ hoàng đế chó má, ta là biểu tỷ của ngươi!”

“Ngươi cũng dám giam cầm biểu tỷ trong cung này, không sợ ta phá tan nhà ngươi hay sao?”

“Ngươi đúng là đồ vô lại, năm đó đáng lẽ phụ thân  ta không nên cứu ngươi, để Tiên Hoàng phế ngươi đi cho xong!”

“Ở trong cung tám năm, đến cả chân ngỗng ngâm rượu của Cư Hương Lâu mà ta cũng chẳng được ăn, ngươi đúng là đồ vô lại…”

Mắng một hồi, nàng lại ngủ gục, trên mặt vương đầy nước mắt, nhưng lại bị ánh trăng lau khô.

Ta ôm nốt nửa vò rượu còn lại, bước ra ngoài điện, vừa uống vừa ngắm trăng.

Nhưng nhìn trăng một hồi, ta lại bật khóc.

Lục Mặc An, Lục Mặc An của ta.

Chàng từng nói sẽ cưới ta, ta từng nói sẽ gả cho chàng.

Nhưng giờ đây, sao lại thành ra thế này.

Sao lại thành ra thế này…

Sáng hôm sau, khi tỉnh dậy, Hiền phi vẫn mơ màng, cười trêu Thục phi thật nhỏ nhen.

Nói nàng ôm cây trâm thược dược trong tay suốt cả đêm, làm thế nào cũng không buông ra.

Thục phi vốn lạnh lùng, nhưng thoáng chốc mặt đỏ bừng, quay lại trêu ta:

“Ngươi ôm vò rượu không rời, còn đòi trèo lên nóc nhà để ngắm trăng.”

Nói đến đây, tất cả đều bật cười.

Nhưng cười mãi, rồi tất cả lại òa khóc.

Thanh Hòa đứng ngoài cửa điện vội vàng đẩy vào, giọng nghẹn ngào khuyên:

“Các nương nương, không được khóc nữa, cung nhân đều đã dậy cả rồi.”

“Quốc chưa có đại tang, thiên tử vẫn bình an, phi tần thất lễ sẽ bị trách phạt.”

Ngươi thấy đấy, sống trong thâm cung, ngay cả tư cách để khóc cũng không có.

Không khóc được cũng tốt.

Không khóc được cũng tốt.

Ít nhất còn có hơi thở để mà níu giữ.

Còn hơi thở, thì còn chút niềm tin để sống mà chịu đựng.

15

Hai năm sau đó.

Ta vẫn là vị Quý phi chu toàn mọi việc, giữ đúng bổn phận như xưa.

Chăm lo hậu cung đâu vào đấy, chỉ để đổi lấy một câu ca ngợi Hoàng hậu từ bách quan.

Từ sau khi tiểu công chúa của Hoàng hậu chết đuối, Hoàng đế cũng không còn đến Tê Ninh cung, thậm chí ít lui tới hậu cung hơn.

Có lẽ Người cảm thấy: chính mình phụ lòng thê tử, mới khiến ông trời trừng phạt.

Cái chết của tiểu công chúa cũng mang đi sự tươi vui của Hoàng hậu.

Nàng không còn làm bánh bao hoa hoè vào ngày xuân, không còn làm cá sống vào ngày hè, cũng không còn ủ rượu quế hoa vào ngày thu nữa…

Mà chỉ sau một đêm, trở thành một Hoàng hậu tuân thủ mọi khuôn phép.

Dồn hết tâm sức vào việc chăm sóc nhị Hoàng tử Dịch Lâm.

Chỉ mong giọt máu trên thân này được bình an lớn khôn.

Thời gian thấm thoắt trôi, đã đến Minh Đức năm thứ mười bốn.

Dịch An nay đã tròn mười tuổi.

Hai vị Hoàng tử tuổi tác không chênh lệch nhiều, nên thường bị đem ra so sánh.

Dịch An từ nhỏ đã không được phụ hoàng yêu thương, nhưng lại thông minh, hiểu chuyện, tài trí vượt bậc.

Ba tuổi biết chữ, năm tuổi làm văn, nay mới mười tuổi đã có thể đọc hiểu một vài sách luận.

Tài năng như vậy khiến các tiên sinh trong Thượng Thư phòng kinh ngạc, không ngớt lời khen ngợi đại Hoàng tử là kỳ tài xuất chúng.

Các tiên sinh ca ngợi nhiều, Hoàng đế cũng để tâm.

Có lẽ vì không tin, Người đích thân ra đề trong Ngự Thư phòng để kiểm tra hai Hoàng tử.

Không giống như Dịch Lâm bối rối, vò đầu bứt tai,

Dịch An đối với các câu hỏi của phụ hoàng đều dẫn kinh sách làm căn cứ, trả lời trôi chảy.

Biểu hiện xuất sắc ấy giành được tràng pháo tay từ tất cả mọi người có mặt.

Hồi lâu, Hoàng đế mới thoáng lộ vẻ hài lòng:

“Đại Hoàng tử quả nhiên thông minh.”

Từ nhỏ đến lớn, Dịch An hiếm khi nghe được phụ hoàng khen ngợi mình điều gì.

Trong thoáng chốc chỉ biết đứng ngẩn ngơ tại chỗ, không biết phải làm sao.

Đến khi ta dẫn con trở về cung, đứa trẻ nhỏ nép chặt bên cạnh ta, ánh mắt bỗng trở nên sáng rực:

“Mẫu phi, hôm nay phụ hoàng khen con!”