Chương 6 - Giấu Kín Trong Túi Áo
Đọc từ đầu:
Nước đường ấm áp trượt xuống cổ họng, sắc mặt anh dường như dễ chịu hơn, lông mày đang cau lại cũng thả lỏng đôi chút.
“Ngọt…”
Anh lẩm bẩm như trẻ con.
“Ừ, ngọt.”
Tôi khẽ đáp, rồi chậm rãi đút từng thìa,
“Uống chậm thôi.”
Anh uống vài hớp, có lẽ tỉnh táo hơn chút, gắng mở mắt nhìn tôi:
“Đường… đắt… đừng… cho anh…”
“Câm miệng.”
Tôi cắt ngang, đút hết chỗ nước đường còn lại:
“Cho anh uống thì cứ uống, đừng lắm lời. Phần còn lại để dành, uống được mấy ngày.”
Anh nhìn tôi, ánh mắt mơ hồ nhưng cũng lộ chút bất đắc dĩ, cuối cùng ngoan ngoãn ngậm miệng.
Cuộc sống cứ thế trôi qua trong những ngày chăm sóc vất vả và vụn vặt.
Đến đêm thứ ba, cơn sốt của Thẩm Hải Sinh cuối cùng cũng lui dần.
Vết thương trên tay bắt đầu đóng vảy, dù ngứa và nhức nhưng ít ra không còn sưng tấy hay rỉ mủ.
Chỉ khổ nhất cái chân, tuy bớt sưng nhưng vẫn chưa chịu lực được, cứ động vào là đau thấu xương.
Trên đảo không có bác sĩ, đành phải để anh tự chịu đựng rồi dưỡng từ từ.
Mọi gánh nặng trong nhà bỗng chốc đổ dồn lên vai tôi.
Trước đây, khi Thẩm Hải Sinh đi biển, tôi chỉ cần trông con, khâu vá giặt giũ, cũng mệt nhưng ít nhất còn có chỗ dựa.
Còn bây giờ, tôi phải lo từng bữa cơm, chăm sóc cả người lớn lẫn trẻ con (Bình An vì sợ hãi và dính mưa nên cũng ốm nhẹ một trận), lại còn nghĩ cách xoay xở ít tiền đắp đổi sinh hoạt.
Chút tiền mà Thẩm Hải Sinh dành dụm bấy lâu, dùng để mua gạo mua thuốc, chẳng mấy đã cạn sạch.
Tôi lục tung trong nhà, xem còn gì bán được.
Vỏ sò, ốc biển đẹp mà anh từng mang về, mấy con sao biển, cá ngựa phơi khô (nghe nói có thể làm thuốc), rồi cả mấy đôi đế giày tôi tự khâu từ mùa trước.
Tất cả gói lại, nhờ chị dâu quen trên đảo mang ra chợ hợp tác xã bán giùm.
Đổi về chỉ được ít tiền, chẳng đủ mua gì ngoài chút gạo xấu và ít dưa muối.
________________________________________
Bữa cơm ngày một đạm bạc.
Cháo ngô loãng đến mức có thể soi gương trong đó, dưa muối cũng sắp hết.
Tôi múc phần đặc hơn cho Thẩm Hải Sinh và Bình An, còn bát mình chỉ toàn nước.
Anh nhìn bát cháo của mình, rồi nhìn sang bát của tôi, mày nhíu chặt.
Không nói lời nào, anh dùng thìa khẽ đẩy phần cháo đặc hơn sang bát tôi.
“Anh làm gì vậy!”
Tôi chặn tay anh lại.
“Chân anh còn đau, phải ăn cho có sức! Bình An cũng còn nhỏ!”
“Em ăn.”
Anh nói gọn lỏn, giọng không cho phép từ chối, rồi lập tức bê bát lên, húp cạn phần nước loãng, cứ như sợ tôi giành lại.
________________________________________
Bình An cũng bắt chước, đẩy bát cháo về phía tôi:
“Mẹ ăn! Con không đói!”
Nhìn hai người đàn ông — một lớn, một bé — dùng cách vụng về và cứng đầu nhất để thương tôi, mắt tôi cay xè, nóng rát.
Tôi cúi đầu, từng thìa từng thìa nuốt chỗ cháo ngô pha lẫn nước mắt, mằn mặn, chan chát, nhưng trong lòng lại thấy ấm đến lạ.
Cuộc sống khổ cực, nhưng chút hơi ấm trong tim vẫn cháy âm ỉ, không chịu tắt.
________________________________________
Thẩm Hải Sinh vốn không chịu ngồi yên.
Chân chưa đi lại được, anh ngồi trên giường, dùng đôi tay chai sạn, khớp xương thô cứng của mình, bắt đầu làm đồ thủ công.
Anh lôi mấy cuộn dây lưới cũ còn tốt, rồi nhờ tôi đi bãi biển nhặt ít vỏ sò, đá cuội nhẵn bóng.
“Anh gom cái này làm gì?”
Tôi ngạc nhiên khi thấy anh lúi húi sắp xếp đống đồ lặt vặt ấy.
“Thử… xem có… làm gì bán được không.”
Anh không ngẩng đầu, hai bàn tay vụng về lúng túng luồn sợi dây buộc vỏ sò, cố định lại.
So với lúc anh kéo lưới hay cầm cây đinh ba săn cá, động tác này chậm chạp, vụng về đến buồn cười.
Nhưng anh lại nghiêm túc một cách đáng kinh ngạc, lông mày hơi nhíu, ánh mắt chăm chú như đang làm thứ quan trọng nhất đời.
Vài ngày sau, thật sự anh đã làm ra được mấy cái chuông gió bằng vỏ sò, rồi cả vài chiếc vòng tay xâu đá màu.
Dù thô mộc, nhưng mang một nét rất riêng của biển đảo.
“Cái này… bán được không?”
Anh giơ một chiếc chuông gió lên, có chút ngập ngừng, trong mắt lộ vẻ mong chờ dè dặt.
“Được! Nhất định bán được!”
Tôi gật đầu thật mạnh, sống mũi cay xè.
Người đàn ông ít nói này, đang dốc hết mọi cách mình có, để giữ lấy mái nhà này.