Chương 1 - Truyền Kỳ Hoàng Phi Lý Thiết Trụ

1

Tổ phụ ta là Lý Thiết Tượng, tên giống như người, là một thợ rèn.

Nhà ta là thế gia rèn sắt nổi danh Vĩnh thành, tám đời trước đều là thợ rèn, có thể nói là gia đình có giáo dục thâm hậu, lịch sử lâu đời.

Khi tổ phụ hấp hối, mẹ ta đang ở trong phòng sinh ta, người khác là đầu ra trước, ta lại là chân ra trước.

*ý là thứ tự bộ phận chui ra của đứa bé đó mấy bà

Tổ phụ kéo dài một hơi tàn chỉ chờ để gặp mặt tôn tử, cuối cùng vẫn không thể sống để kịp nhìn mặt ta.

Ông không cam lòng gọi cha ta đến bên giường, đặt một cái tên cho tôn nhi còn chưa kịp gặp mặt, một cái tên mộc mạc gửi gắm biết bao kỳ vọng… Thiết Trụ.

Tức trụ cột của Lý thị làm nghề rèn.

Tổ phụ vừa mới tắt thở, ta liền cất tiếng khóc chào đời.

Cha ta ôm ta vừa mới được sinh ra, quỳ gối trước giường tổ phụ mà gào khóc.

“Cha! Người mở mắt ra xem! Đứa nhỏ ra đời rồi!”

“Cha! Thiết Trụ, nó là một khuê nữ!”

Sau khi đám tang đầy đau buồn của tổ phụ qua đi, rất nhanh cha ta đã rơi vào rối rắm.

Thiết Trụ, đương nhiên không thể là tên của một cô nương.

Nhưng đây là lời trăng trối của tổ phụ, tổ phụ vừa mới tắt thở, cha đã làm trái lại, như vậy hiển nhiên rất không hiếu thuận.

Cha ta đau khổ đấu tranh giữa làm đứa con có hiếu hay làm một người cha tốt.

Cuối cùng, vẫn quyết định làm một đứa con có hiếu.

Vì thế, khuê danh của ta gọi là Lý Thiết Trụ.

Sau khi tổ phụ qua đời, cha ta kế thừa nghề rèn của tổ phụ.

Nhưng mọi người không gọi ông là Lý thợ rèn, mà mang theo sự kính nể trình độ, gọi ông là Lý sư phó.

Bởi vì cha ta từng đọc sách.

Sau lưng vinh quang của mỗi một gia tộc, đều có một hậu duệ lệch lạc.

Hậu duệ không tuân theo nghề rèn của Lý thị ta, chính là cha của ta, Lý Khang.

Từ nhỏ cha ta đã lộ ra chí hướng bỏ sắt theo văn.

Khi ông mới bảy, tám tuổi, mỗi ngày đều giúp tổ phụ nhóm lửa, đi bộ tới hẻm Nhân Thanh cách đó ba con phố, trèo lên đầu tường nhà tư thục nghe lão nho sinh trong đó giảng “Kinh thi”.

Sau hai năm gió mặc gió, mưa mặc mưa như vậy, tổ mẫu ta không đành lòng, dùng mấy đồ dùng sơ sài trong nhà để trả tiền công cho thầy giáo, chính thức cho ông đến học đường học bài.

Nhà ta vốn xuất thân làm nghề thủ công, cuộc đời này của cha ta đã định là chỉ có thể làm một thợ rèn.

Tuy rằng không thể thông qua khoa khảo thay đổi cuộc đời, cha ta vẫn chăm chỉ hiếu học như trước, thậm chí còn thầm định ước mơ của mình, làm một nhà thơ.

Nhà thơ ông sùng bái nhất là Khuất Nguyên. Tuy rằng rất nhiều lời trong tác phẩm của Khuất Nguyên làm cho quá trình học tập của ông lâm vào bế tắc nhưng ông vẫn nhất quyết theo tư tưởng, hành động như trước, cố gắng tới gần vị thần tượng khác biệt to lớn với mình.

Chẳng những thường mặc một thân hoa hoa cỏ cỏ đứng trầm tư trong tiệm rèn, còn bắt chước ý văn của “Ly Tao”*, âm thầm tự sáng tác tác phẩm của mình, “Lao Tao”.

*Tên một bài thơ của Khuất Nguyên, “Ly tao” nguyên là một điệu dân ca nước Sở, thích hợp với việc thể hiện những nỗi uất ức, bất bình; vì thế nhà thơ Khuất Nguyên khi bị vua Sở đầy ải đã dùng Ly tao làm đề để trữ phát những nỗi đau buồn day dứt uất kết trong lòng, đồng thời nói lên lý tưởng mà mình hoài bão. Ly Tao (离骚 ), bài thơ cha nữ chính là Lao Tao (牢骚 ), chữ lao tao này có nghĩa là bực tức, oán trách, bất bình.

Sở dĩ mộng tưởng đáng quý ở chỗ trên đường biến nó thành hiện thực nhất định sẽ gặp phải đả kích lớn.

Đả kích cha ta gặp phải, đến từ tổ phụ ta, Lý Thiết Tượng.

Khi cha ta mười sáu tuổi, tổ phụ không thể nhịn được nữa mà cho cha ta nghỉ ở tư thục, cả “Lao Tao” cha ta dồn hết tâm huyết cũng bị vứt vào trong hỏa lò, khiến cha ta an phận thủ thường làm một thợ rèn.

Cha ta không thể không buông bỏ giấc mộng văn học của mình.

Nhưng đó chỉ là vẻ ngoài thôi.

Sau khi cha ta kế nhiệm thợ rèn, vẫn một lòng son sắt giữ vững tinh thần cao phong trong sáng, cùng với tư thái cao ngạo của một nhà thơ.

Tiếng gõ sắt có thể khiến ông nhớ tới lưỡi mác kỵ binh.

Đốm lửa văng khắp nơi trước mắt có thể làm cho ông nhìn thấy ngân hà đầy trời.

Ông trầm mặc kiệm lời, nói năng thận trọng, có vẻ rất có khí khái thế ngoại cao nhân.

Bởi vậy nhà ta buôn bán đặc biệt tốt.

Ngựa phi ngàn dặm có, mà Bá Lạc không tầm thường cũng có.

*Bá Lạc: người thời Xuân Thu, nước Tần, giỏi về xem tướng ngựa. Ngày nay dùng để chỉ người giỏi phát hiện, tiến cử, bồi dưỡng và sử dụng nhân tài, "Bá Lạc" không những chỉ cá nhân mà còn có thể dùng để chỉ tập thể.

Năm cha ta hai mươi tuổi, Vĩnh thành nghênh đón khách quý, cha ta cũng nghênh đón Bá Lạc.

Vị khách quý đồng thời cũng là Bá Lạc này, chính là cha của Thái tử phi đương triều, Bành Thành Bá.

Thiên tử vương triều hiện nay xuất thân từ dân gian, kết hôn với Hoàng Hậu Ngưu thị khi còn trẻ. Sau khi ông thành lập Đại Chiêu, trở thành Hoàng Đế, vô cùng nhớ thương tình cảm phu thê hoạn nạn tình thâm nghèo nàn năm đó. Đồng thời xét thấy từ xưa đến nay họa đều do ngoại thích và hậu cung chuyên quyền, nên ông đã nghĩ ra biện pháp một lần vất vả cả đời nhàn hạ, tuyển phi từ dân gian.

Tổ tiên Bành Thành Bá lấy nghề nông mà sống, bản thân ông ta thời trẻ cũng lệ tinh đồ trị* vượt qua loạn thế phong vân, từ một nông dân giai cấp tầm thường trở thành quan lại ăn bổng lộc.

*Lệ tinh đồ trị: chữ hán là 励 精图治, theo hanzii dịch thì mang nghĩa chăm lo việc nước; dốc sức vì nước; dốc lòng xây dựng đất nước.

Sai khi Thiên tử kiến quốc, nữ nhi của ông ta vì có thanh danh mỹ mạo hiền đức, cùng với gia thế bình thường, được chọn vào trong cung thuận lợi trở thành Thái tử phi.

Bành Thành Bá cũng từ một quan thất phẩm vô danh tiểu tốt biến thành hoàng thân quốc thích cao cao tại thượng.

Vĩnh thành vốn là nguyên quán của Bành Thành Bá. Sau khi Bành Thành Bá trở thành hoàng thân quốc thích cũng không hề quên các bô lão ở quê nhà, cách mấy năm lại trở về quê hương thăm viếng tế tổ.

Lần về quê này, xe ngựa xa hoa nhà ông ta đi qua con hẻm nhỏ nhà ta.

Bành Thành Bá ở trong xe ngựa, giữa những tiếng ồn ào bàn tán bỗng nhiên nghe được một tràng âm thanh leng keng dễ nghe của tiếng đập sắt.

Cùng với âm thanh đập sắt là tiếng ca sâu xa mà hùng hồn:

“Nhật nguyệt hốt kì bất yêm hề, xuân dữ thu kì đại tự.

Duy thảo mộc chi linh lạc hề, khủng mĩ nhân chi trì mộ.”

Đây là thói quen của cha ta, cũng là nguyên nhân ông bị người ta chú ý.

Khi rèn sắt, vịnh xướng Ly Tao.

Nếu như nói người khác bị cha ta hấp dẫn, chủ yếu là do sự mới mẻ. Bành Thành Bá bị cha ta hấp dẫn, có thể nói là sơn thủy gặp tri âm.

Bành Thành Bá bị âm thanh rèn sắt và tiếng vịnh xướng hấp dẫn, ông xuống xe, lần dò theo âm thanh tìm được lò rèn nhà ta.

Sau đó nhìn thấy thanh niên thân cao tám thước, lưng ong tay vượn, mình trần mồ hôi như mưa rèn sắt, miệng xướng bài Ly tao.

Kích động như gặp được người trời!

Ông đứng dưới cây hòe bên lò rèn nhà ta, lẳng lặng nhìn người thanh niên đang rèn sắt.

Mà biểu hiện của cha ta cũng không giống như những người bình thường. Đối mặt với ánh mắt nhìn chằm chằm của quý nhân mặc hoa phục cũng không hề lộ ra chút nào của thụ sủng nhược kinh mà làm như không thấy, chuyên tâm rèn sắt như cũ.

Nội tâm Bành Thành Bá vô cùng kích động.

Bởi vì ông nghĩ đến một người, một cổ nhân mang theo sự kính trọng, Kê Khang.

Cuối cùng, cha ta đã rèn xong một con dao phay tốt, dùng nước lạnh dội qua, cầm lên tựa như bảo kiếm mà xem xét tường tận lại lưỡi dao. Bành Thành Bá chủ động tiến tới, hỏi thăm cha ta.

“Không biết tiên sinh xưng hô thế nào?”

Cha ta buông dao phay xuống, lạnh nhạt đáp lễ: “Làm phiền trưởng giả đã hỏi, tại hạ Lý Khang.”

Bành Thành Bá siết chặt nắm tay.

Kê Khang.

Lý Khang.

Kê Khang làm thợ rèn.

Lý Khang cũng làm thợ rèn.

Thật khéo trùng hợp!

Bành Thành Bá quyết định kết giao bằng hữu với cha ta.

Ông mời cha ta cùng nhau ăn một bữa cơm.

Bởi vì đương triều kiềm chế ngoại thích, nhạc phụ Thái tử như Bành Thành Bá, ngoại trừ phú quý thì chỉ có hai bàn tay trắng, cuộc sống có thể nói là tịch mịch như tuyết.

Một đêm này gặp được cha ta, bọn họ uống rượu một chén tiếp một chén, vì tiếc cho nhau có tài nhưng không gặp thời, nâng cốc vì sự luyến tiếc giữa những người mang chí lớn với nhau. Xưng hô của Bành Thành Bá với cha ta cũng từ Lý sư phó biến thành tiểu Lý huynh đệ.

Bành Thành Bá và tiểu Lý huynh đệ, từ vàng bạc đồng thiếc cho tới triết học nhân sinh, tương phùng hận muộn, nghìn chén hận ít, thế là chén bàn bừa bộn, nằm gối lên nhau trong quán rượu, bất tri đông phương chi ký bạch*.

*Trích từ bài thơ《赤壁赋》, nguyên văn là: 相与枕藉乎舟中,不知东方之既白。Đại ý là mải mê làm việc quên mất thời gian, ở trong truyện thì là hai ông mải mê nói chuyện quên mất thời gian á mí bà. Bài thơ này Meo cố tìm bản dịch tiếng việt nhưng không có, nên đành trích tiếng trung ra đây vậy.

Ngày hôm sau, bởi vì cha ta say rượu nên cửa hàng phải đóng cửa một ngày, can tội đêm không về nhà, bị mẹ ta phạt quỳ trên bàn giặt.

Khi cha ta quỳ, cao ngạo hướng mặt về phía Mặt Trời, thật sự không ngờ tự mình đã khiến số phận âm thầm thay đổi.

Không lâu sau, cha ta làm quan.

Sau khi Bành Thành Bá rời Vĩnh thành hồi kinh, không đành lòng để tiểu Lý huynh đệ lưu lạc thị tỉnh nên đã tiến cử tiểu Lý huynh đệ một chức quan, chủ bộ huyện Vĩnh thành.

Chủ bộ cũng không thể coi là quan, cùng lắm chỉ là lại* mà thôi, nhưng từ nay về sau cha ta được ăn cơm quan, trở thành quan gia trong mắt bách tính, có thể nói là một bước lên trời.

*lại: một chức vị không có phẩm cấp thời phong kiến.

Cha ta cũng không hề phụ mắt xanh của Bành Thành Bá.

Mười năm cha ta đảm đương chủ bộ, thức khuya dậy sớm, tận trung chức vụ, có được sự coi trọng của thượng ti huyện gia, được lòng của bách tính bản địa.

Lò rèn nhà ta cũng không hề dỡ bỏ, sau khi cha ta lo chuyện công vụ xong, thường xuyên rèn sắt miễn phí giúp người.

Sau khi nổi danh, cuộc sống của nhà ta ngày càng sa sút, mười phần túng bấn.

Cứ vậy qua mười năm, Bá Lạc Bành Thành Bá tới Vĩnh thành lần thứ hai, cũng là lần thứ hai mang đến sự thay đổi vận mạng cho nhà chúng ta.

Nhưng thay đổi lần này, không phải cha ta, mà là ta.

Đã qua mười năm, cha ta và Bành Thành Bá cũng không hề đoạn tuyệt quan hệ, bọn họ thư tín qua lại, có thể nói là thâm giao tương linh.

Bành Thành Bá tới Vĩnh thành, nhìn thấy tiểu Lý huynh đệ bởi vì càng thêm nghèo khó mà có vẻ khí khái càng cao, vui vẻ không ngớt, quyết định tá túc ở hàn xá nhà ta một đêm.

Chính vào ngày này, ông thấy được Lý Thiết Trụ mười bốn tuổi duyên dáng yêu kiều đang chẻ củi một tay ở trong sân.

Cũng chính là ta.

Đầu tiên ông bày tỏ chúc mừng với tiểu Lý huynh đệ, chúc mừng cha ta sinh được một nữ nhi mỹ lệ có tiền đồ như thế.

Sau đó lập tức nhìn ta một lúc lâu, dùng giọng điệu cảm thán mà nói: Giống y ngô nữ!

“Ngô nữ”, hay Thái tử phi đương triều.

Đây dường như là sự công nhận cao nhất đối với một cô nương.

Tức khắc Bành Thành Bá đem đến một tin tức nội bộ.

Hoàng Thái Tôn, cũng chính là ngoại tôn* của ông, nay đã trưởng thành, Hoàng đế Bệ hạ đang muốn tuyển phi cho đích tôn.

*cháu trai ngoại

Mà ta, Lý Thiết Trụ, mười bốn tuổi, duyên dáng yêu kiều, lớn lên lại giống Thái tử phi, thích hợp biết bao.

Người trước giờ vẫn luôn ngẩng cao đầu như cha ta, nhất thời cũng sợ đến xua tay liên tục.

Nhưng Bành Thành Bá lại bị suy nghĩ của mình làm cho kích động, liếc mắt nhìn ta một cái, gần như chỉ thiếu nước làm cho ta gọi ông một tiếng ngoại tổ phụ*.

*ông ngoại

Nhưng rất nhanh Bành Thành Bá đã rơi vào phiền muộn, bởi vì ông thân là ngoại thích, mặc dù là ngoại tổ phụ của Hoàng Thái Tôn, đối với chuyện Thái Tôn tuyển phi lại không có chút quyền quyết định nào, thậm chí đến cả quyền phát biểu suy nghĩ cũng không có.

Vậy nên sau khi ông rời đi, một nhà ba người chúng ta đối với cơ hội tốt không thể nào xảy ra đó cũng không thực sự để trong lòng.

Nhưng mấy tháng sau, huyện gia lại mang theo vẻ mặt kích động đến tìm cha ta, nói với cha ta, trong danh sách được chọn, thình lình xuất hiện đại danh Lý Thiết Trụ.

Một nhà chúng ta đều kinh ngạc.

Bách tính toàn huyện cũng kinh ngạc.

Tuy rằng nguyên quán của Thái tử phi ở Vĩnh thành, nhưng bản thân nàng cũng chưa từng sống ở Vĩnh thành, tuy rằng tổ trạch của nàng có vô số truyền thuyết về phượng hoàng, nhưng toàn huyện cũng không có ai từng tận mắt nhìn thấy con phượng hoàng này.

*đoạn này ý nói tuy nghe đồn nhiều nhưng chưa ai thấy thái tử phi bao giờ

Ta lại khác.

Từ khi ta còn ở trong bụng mẹ, cha ta vẫn chỉ là một thợ rèn, toàn thành, ít nhất là có hơn phân nửa người của cái thành này đã từng tận mắt nhìn thấy ta.

Bởi vậy mọi người đều đặc biệt kích động.

Ngày ta rời khỏi Vĩnh thành nhập kinh đó, người vây xem đông kín, thiếu chút nữa ta đã không ra được khỏi cửa thành.

Cũng thật trùng hợp là, khi ta đến kinh thành, cũng đã thiếu chút nữa không vào được cửa thành.

Bởi vì ta bị sét đánh.

2

Mùa hè năm Hồng Đức thứ hai mươi, ta gánh vác kỳ vọng của bách tính toàn huyện, tốn một tháng lẻ năm ngày lặn lội đường xa mới tới được kinh thành Nam An.

Đồng thời tới cùng với ta còn có hơn mười chiếc xe ngựa từ toàn quốc, từ các phủ khác nhau đến tham gia tuyển tú nữ.

Xe ngựa của chúng ta lần lượt chạy vào trong thành.

Ngày đó hiển nhiên không tính là một ngày hoàng đạo, ở cự ly chưa tới năm dặm ngoài kinh thành, trời đột nhiên đổ mưa xối xả, kèm theo cơn mưa xối xả là tiếng sấm ầm ầm không dứt.

Ta và phu xe đều hy vọng có thể mau chóng vào thành yên ổn.

Nhưng trời không chiều lòng người, ngay một khắc trước khi xe ngựa của ta gần đi vào cửa thành kia, một tia sấm sét từ trên trời giáng xuống, có khả năng là đánh vào ta đang ngồi trong xe.

Phu xe trong lúc nguy cấp thể hiện thân thủ, nhảy xa một cách lạ thường, mà ta đang ngồi trong xe lúc này, lại không mảy may biết chuyện gì đang ập tới.

Sau một trận sét đánh, thân xe bị hỏng hết.

Trong cơn mưa lớn, ta ngây ra như phỗng.

Không bị thương chút nào.

Thật khó để diễn tả tâm tình ngay lúc đó, bởi vì từ đó về sau một thời gian dài ta đều rơi vào trạng thái như đi vào cõi thần tiên, ăn được ngủ được, chỉ là không nói chuyện.

Ngay lúc hồn phách ta trở về đã ngoài ý muốn mà thông qua sàng lọc của Lễ bộ, chỉ còn chờ ngày vào cung ngự tiền tuyển chọn.

Ngày đó ta tiến cung, trời nắng ráo bất thường.

Ta cùng với hai mươi chín tú nữ khác, nhất tề mặc váy xanh như nhau, không trang điểm, canh suông nước nhạt, đi theo phía sau quan viên dẫn đầu, yên tĩnh có trật tự tiến vào hoàng thành, đến đại điện phía cuối tuyển tú.

Trên đại điện là những người tôn quý nhất đất nước này.

Hoàng đế, Thái tử, Thái tử phi, cùng với đương sự quan trọng trong lần tuyển chọn này, Hoàng Thái Tôn Ngụy Nghiệp Chiêu.

Ấn tượng đầu tiên của ta đối với Ngụy Nghiệp Chiêu, là một tiếng phì.

Khi ta rảo bước tiến vào đại điện, không khí xung quanh vô cùng yên tĩnh, bị một tiếng phì phá vỡ.

Có người nở nụ cười.

Đặc biệt to rõ.

Ta vô thức hướng sự chú ý về phía nơi phát ra âm thanh.

Thiếu niên hồng bào ngồi bên tay phải phía trên đại điện, lấy tay che miệng, toàn thân run rẩy.

Rất nhanh ta đã thu hồi ánh mắt, bình tĩnh như nước hướng về phía thân ảnh uy nghiêm mơ hồ mà quỳ xuống.

“Dân nữ Lý Thiết Trụ tham kiến Hoàng Thượng.”

So với sự bình tĩnh của ta rõ ràng là Hoàng đế Bệ hạ đang hưng phấn, ông dùng giọng điệu vui mừng nói với ta ba chữ:

“Chính là ngươi?”

Sau một hồi ở đây ta mới biết được nguyên nhân tại sao ba chữ này lại xuất hiện.

Có lẽ phải nói từ ngày đó ta bị sét đánh.

Ban đầu khi chuyện xảy ra, Lễ bộ xuất phát từ sự có trách nhiệm đối với các thành viên tham gia tuyển chọn, trước tiên phái người đến hiện trường xem xét đã.

Có người nói sấm sét lúc đó mục tiêu ban đầu chính là cửa chính thành Nam An. Nhưng lại có người khác nhìn thấy, đạo sấm sét này vốn dĩ là nhắm thẳng đến thành Nam An, đột nhiên khi chỉ còn cách mục tiêu mười thước, đột nhiên chuyển lộ tuyến, ngoặt một cái đánh về phía xe ngựa đang vào thành.

Cái này rất khó không khiến người ta kinh ngạc, sau khi xe ngựa vì gánh hộ Đại Chiêu một kiếp mà bị nát bấy, người ngồi bên trong lại không bị thương chút nào, thái độ lại trầm ổn một cách bất thường.

Quần chúng tận mắt chứng kiến, miêu tả lại tình huống xảy ra chuyện cùng với phản ứng của ta sống động như thật.

Mười người thì có đến chín người tả lại ta “Dáng ngồi ngay thẳng, thần sắc như thường”, người thứ mười còn bồi thêm một câu “quanh người toát ra ánh sáng.”

Người đến xem hiện trường của Lễ bộ rất thành thật mà báo cáo lại tình hình, tóm tắt bằng một câu “quanh người toát ra ánh sáng”.

Trùng hợp là, cùng lúc đó, quan viên khâm thiên giám đang tiến hành xem bói chuyện tuyển phi của Hoàng Thái Tôn, trong nháy mắt đã bói ra một kết quả: Quẻ là chấn, chấn tức lôi, đây là báo trước vị Hoàng Thái Tôn phi, đích thị là một cô nương có liên quan đến sấm sét.

Những tin tức này sau khi truyền đến tai Bệ hạ, Bệ hạ mặt rồng vô cùng vui vẻ, nhất định phải một lần gặp mặt Thiết Trụ cô nương truyền kỳ mang đến điềm lành thần bí này.

Bởi vậy khi ta đứng trước mặt ông, ông đã ngạc nhiên mở miệng: “Chính là ngươi!”

Song khi đó ta không hiểu hàm ý của ba chữ này, chỉ có thể giữ thái độ cung kính trả lời: “Chính là dân nữ.”

Bệ hạ cười ha hả, sau đó hỏi ta một vấn đề:

“Lý Thiết Trụ, ngươi có tài nghệ gì?”

Ta cũng không biết hôm đó ta là người duy nhất bị hỏi đến tài nghệ tú nữ, trước đó cũng chưa từng có ai nhắc nhở chúng ta rằng quyết định tuyển chọn cần biểu diễn tài nghệ.

Tay ta ướt mồ hôi.

Nói ra thật xấu hổ.

Tuy rằng ở phạm trù văn học cha ta cũng có một trình độ nhất định, nhưng cá nhân ta chẳng bao giờ có liên quan chút nào đến lĩnh vực nghệ thuật nào cả.

Cha ta đã từng nỗ lực tiến hành biện pháp hun đúc tiềm năng văn học trong ta, dùng chính tác phẩm “Lao Tao” của mình làm mẫu, nhưng bất kể cha ta có kiên nhẫn dạy dỗ thế nào, ta cũng chỉ có thể nhớ hai câu trong đó:

Ngô phụ đả thiết hề,
Ngô diệc đả thiết.

Nội tâm ta hoảng loạn vô cùng, thời gian trôi qua từng chút một, Bệ hạ nhẫn nại chờ đợi.

Trong tình huống cái khó ló cái khôn, ta đã nghĩ ra một tài nghệ miễn cưỡng có thể nói ra.

Vậy nên ta đáp lời: “Dân nữ có thể vừa hát vừa kể chuyện theo nhịp điệu.”

Vừa hát vừa kể chuyện theo nhịp điệu là một loại hình thức khúc nghệ dân gian vui tai vui mắt, thực ra người biểu diễn chủ yếu là người hành nghề ăn xin và tăng lữ trong chùa miếu.

Cho nên ta có thể tiếp xúc cũng như hiểu rõ nghệ thuật này, nhờ vào thâm niên thường xuyên có khất cái đến xin cơm nhà ta.

So với “Lao Tao” mang kiến thức văn học của cha ta kia, rõ ràng tiếng phách trúc trong tay và lời hát từ miệng lão khất cái có sự hấp dẫn đối với một đứa trẻ như ta hơn nhiều. Ta học tài nghệ này vô cùng nhanh, khiến cha ta từng nghi ngờ năng lực dạy học của chính mình.

Đại điện vốn dĩ yên tĩnh nay càng thêm yên tĩnh, hồng bào của thiếu niên cũng không ngừng run lên, ánh mắt bốn phương tám hướng đều tập trung trên người ta.

Bệ hạ “Ồ” một tiếng, vung tay một cái ra lệnh: “Đến! Hát cho trẫm nghe một đoạn!”

Công cụ biểu diễn rất nhanh đã được đưa đến tận tay ta.

Ta cầm phách trúc, hắng giọng, thay đổi sắc mặt, mi phi sắc vũ bắt đầu biểu diễn:

“Này! Này!

Ván tre bay, phách trúc bay lên.

Bát tiên đông du hiển thần tích.

Hồ lô Lý Thiết Quải* bán thuốc,

Tiêu phiến hóa thuyền Hán Chung Ly*.

Bảo kiếm Lữ tổ* bay như rồng, Lão Quả* gấp giấy cưỡi lừa ngược.

Tiên cô* cầm sen tới, Thái Hòa* đạp ca đi.

Quốc Cữu* cầm thẻ ngọc, sáo Tương Tử cắt ngang địch.

Cớ sao bát tiên hội tụ?

Giúp Hồng Đức Đế Đại Chiêu ta!

Hồng Đức Đế, mười sáu năm mưa thuận gió hòa.

Mưa thuận gió hòa, đao lý lai, hỏa lý khứ.

Đuổi quân Thát, phục Trung Hoa, cứu bách tính, lập kỷ cương!

Tứ hải yến, Hoàng Hà thanh, từ nay về sau nhà nhà có thịt ngư dân có cá, người có áo mặc, gạo đầy chum!

Bát tiên tề tựu trợ giúp Hồng Đức gia, đưa Đại Chiêu ta tốt lên! Thiên! Địa!”

*Bát tiên: Phần lớn họ được cho là sinh ra vào thời nhà Đường hoặc Nhà Tống. Bát Tiên được tôn sùng bởi những người theo Đạo giáo và là một thành tố được biết đến rộng rãi của văn hoá Trung Hoa. Người ta cho rằng họ sống ở đảo núi Bồng Lai.
-Thú cưỡi:
Lý Thiết Quải cưỡi Bạch Tượng
Hán Chung Ly cưỡi Nai tiên
Lã Động Tân cưỡi Hạc tiên
Trương Quả Lão cưỡi Lừa ngược
Lam Thái Hòa cưỡi mây
Hà Tiên Cô cưỡi chim Phượng hoàng
Hàn Tương Tử cưỡi chim Công
Tào Quốc Cữu cưỡi Mai Hoa Lộc
-Pháp bảo:
Lý Thiết Quải: thiết trượng và hồ lô
Hán Chung Ly: quạt ba tiêu
Lã Động Tân: phất trần và thuần dương kiếm
Trương Quả Lão: ngư cổ
Lam Thái Hòa: giỏ hoa lam
Hà Tiên Cô: bông sen
Hàn Tương Tử: ngọc tiêu
Tào Quốc Cữu: thủ quyến, tức thẻ bài ngọc

Ta chuyên tâm biểu diễn, khi âm cuối dừng lại mới phát hiện có một âm thanh trong trẻo khác đang diêu tương ứng hòa cùng với ta.

Khi ta dừng lại, Bệ hạ cũng dừng theo.

Ông tràn trề vui mừng mà cười lớn, nói một câu mà trừ ông ra, bất kì kẻ nào khác nói ra đều có nguy cơ mất đầu như chơi.

“Trước đây khi trẫm còn là ăn xin cũng hát cái này!”

Khách tham gia tuyển tú và chủ nhà đều chính thức kết thúc trong không khí vui mừng.

Chịu thay Đại Chiêu một lôi kiếp mà không bị thương chút nào, lại phù hợp với ám thị của trời cao, đồng thời cách thưởng thức nghệ thuật cũng vô cùng hợp với Bệ hạ.

Tất cả đều tỏ ra một điều vô cùng rõ ràng:

Ta, thiếu nữ Lý Thiết Trụ.

Chính là lựa chọn phù hợp nhất cho vị trí Hoàng Thái Tôn phi.

3

Thánh chỉ tứ hôn rất nhanh đã được truyền xuống.

Bởi vì thủ tục hôn lễ hoàng thất rườm rà dài dòng, ta và Thái tôn không thể nào thành hôn ngay lập tức được.

Ta bị đưa đến Đông cung, giao cho Thái tử phi, cũng chính là bà mẫu* tương lai của ta, tiến hành dạy bảo tất cả các phương diện.

*bà mẫu

Đồng thời, ta cũng đã có chút kiến thức sơ bộ về phu quân tương lai, Hoàng Thái Tôn điện hạ, qua lời giới thiệu chan chứa tình cảm của mọi người.

Hoàng Thái Tôn Ngụy Nghiệp Chiêu, được sinh ra vào năm thứ ba sau khi Đại Chiêu lập quốc, Bệ hạ hay gọi hắn là Nghiệp Chiêu, đây là mong hắn có thể mang lại một phen sự nghiệp vĩ đại cho Đại Chiêu, có thể thấy được cũng như cái tên Thiết Trụ của ta, đều là những cái tên được gửi gắm kỳ vọng to lớn.

Bệ hạ đặc biệt yêu thích người cháu này, đã sớm xác lập thân phận người kế thừa giang sơn của hắn, mà bản thân hắn cũng mười phần không chịu thua kém, không chỉ đọc sách đặc biệt lợi hại, còn tinh thông thư pháp hội họa, tài lẻ cũng đa dạng. Ở phương diện nghệ thuật vô cùng có thiên phú, so với ta và Bệ hạ, có thể nói là một trời một vực.

Điều được người ta khen ngợi nhiều nhất chính là khí chất cao quý và dung nhan tuấn tú của hắn, đa phần đều được nữ giới ưu ái, ngay cả thượng cung đã tuổi trung niên dạy dỗ lễ nghi cho ta, khi nhắc đến hắn cũng không nhịn được mà nổi lên rặng mây đỏ đáng ngờ.

Nhưng hết thảy những điều này, đối với ta mà nói có vẻ tương đối mờ mịt, bởi vì chúng ta vẫn chưa hề chính thức gặp mặt đôi bên, ấn tượng của ta đối với hắn trước sau chỉ dừng lại ở một tiếng “phì” trước đây.

Ta chính thức nhìn thấy Ngụy Nghiệp Chiêu là thời điểm hai tháng sau khi vào Đông cung.

Đó là một đêm trăng sáng, ta khó có thể vào giấc.

Trăng sáng nhô lên cao, người đang tha hương, khó có thể không sinh ra nhiều nhớ thương, phiền muộn.

Nhưng chủ yếu là do ta đói.

Từ khi vào Đông cung học tập, mỗi ngày ta đều phải học lượng lớn kiến thức văn hóa và quy định lễ nghi, trong đó lễ nghi khi dùng cơm vô cùng nghiêm khắc, nhất định phải giữ vững ưu nhã nhã nhặn, không thể ăn nhiều.

Loại huấn luyện nhai nhỏ nuốt chậm tàn khốc này khiến cho thể xác lẫn tinh thần ta đều thống khổ cùng cực, ta thường xuyên đói bụng, đói đến mức không nói nên lời.

Mỗi tối ta đều nhân lúc người canh cửa ngủ say, lặng lẽ rời giường, lấy sạch những thứ có thể ăn trong viện.

Bởi vậy đêm hôm đó, Ngụy Nghiệp Chiêu vừa nhảy xuống từ trên tường, liền bắt gặp ta đang lén lút thập thò trong sân, bốn mắt nhìn nhau.

May là sự cố phát sinh trong đêm trăng sáng.

Thiếu niên thiếu nữ bốn mắt nhìn nhau.

Ánh trăng sáng trong suốt như vậy.

Chúng ta đều im lặng một lúc lâu.

Trên đời này, danh tiếng tốt, lợi ích tốt, chung quy đều là tôn sùng tài hoa đạo đức, đều đến từ quá trình rèn luyện mà thành, chỉ có nhan sắc tốt, là hoàn toàn xuất phát từ bẩm sinh.

Ta thừa nhận trong nháy mắt khi nhìn thấy Ngụy Nghiệp Chiêu chân đi xiêu vẹo, thâm tâm ta không kiềm được mà rục rịch.

Hiển nhiên Ngụy Nghiệp Chiêu không ngờ được trong đêm khuya tĩnh mịch như này lại gặp được một cô nương xinh đẹp đang gặm táo.

Hắn gãi gãi sau tai, có vẻ tương đối xấu hổ, rất nhanh đã khôi phục vẻ trấn định.

“A, Lý Thiết Trụ đúng không, ngươi đồng ý giúp ta không…”

Ta đồng ý.

Nếu như cho phần bằng lòng này một thời hạn, ta nghĩ ta sẽ nói là vô thời hạn.

Ngụy Nghiệp Chiêu nói: “Ngươi có thể giúp ta tìm Tiểu Hồng không?”

Tiểu Hồng?

Nghe tên so với Thiết Trụ thì ôn nhu hơn rất nhiều, trong lòng ta có một chút đau xót xẹt qua.

“À, tên đầy đủ của nó là Đại Tướng Quân Hồng Quang Biến Thể Uy Vũ Thường Thắng*.”

*Đại tướng quân hồng quang khắp người uy vũ thường thắng

“Đại…”

“Đại Tướng Quân Hồng Quang Biến Thể Uy Vũ Thường Thắng.”

Ta gật đầu, “Vậy vị Tiểu Hồng Tướng Quân này đang ở đâu?”

“Ở trong viện của ngươi.” Hắn nói, “Nghe xem.”

Ta nghe.

m thanh động tâm.

“Hướng kia.”

Hắn chỉ tay về phía bồn hoa.

Đêm thật sự yên lặng.

Côn trùng mùa thu kêu rả rích.

Trên mặt hắn hiện lên vẻ mặt dịu dàng không gì sánh bằng, “Ngươi nghe chưa? m thanh tuyệt vời biết bao.”

Đích thực là âm thanh vô cùng tuyệt vời.

Chúng ta đi về phía bồn hoa có tiếng dế kêu, hắn móc ra một hộp quẹt hỏi ta: “Ngươi châm lửa giúp ta được không?”

Dưới sự tận tình phối hợp của ta, rất nhanh Ngụy Nghiệp Chiêu đã bắt được con Đại Tướng Quân Hồng Quang Biến Thể Uy Vũ Thường Thắng kia.

Hắn cất dế vào trong cái lồng tre, rồi chúng ta ngồi xuống mặt đá bao quanh bồn hoa.

Nhất thời bầu không khí lâm vào ngượng ngùng xấu hổ.

Một lúc sau, ta chủ động phá vỡ cục diện bế tắc, nói ra nghi hoặc trong lòng, ta tỏ ý con Tiểu Hồng Đại Tướng Quân này, thực ra nó chẳng đỏ, thậm chí còn tương đối đen.

Đối với nghi hoặc như gãi đúng chỗ ngứa của ta có vẻ Ngụy Nghiệp Chiêu đặc biệt cảm thấy hài lòng, hắn thể hiện khí phách của một vị trưởng lão, nhẫn nại giải thích thắc mắc của ta.

Hắn nói cái tên thường sẽ khiến cho người ta hình thành ấn tượng trực quan đầu tiên, đồng thời loại ấn tượng này sẽ tăng thêm một phần tưởng nhớ đặc biệt.

“Ví dụ như, nếu nó tên là Đại Tướng Quân Hắc Quang Biến Thể Uy Vũ Thường Thắng, thì ngươi có suy nghĩ gì?”

Hắn nghiêm túc khoanh tay hướng về phía ta.

“Cảm giác tính mạng nó bị đe dọa, khiến người ta lo lắng.”

Hắn hơi gật đầu nhẹ.

“Kim Quang Biến Thể?”

“Quá tốt lành, thậm chí còn muốn thắp cho nó mấy nén hương.”

“Lục Quang Biến Thể?”

“Cảm giác hơi phức tạp, chủ yếu là đồng cảm, còn có chút cảm giác không biết nói gì với con dế này.”

Dưới sự dẫn dắt từng bước một của Ngụy Nghiệp Chiêu, ta đã hiểu được dụng tâm của hắn khi đặt tên cho con dế này.

Hồng Quang Biến Thể, hiển nhiên là vừa có may mắn, lại tràn ngập tâm huyết, kết hợp với Uy Vũ Thường Thắng khi gọi lên càng tạo cảm giác tốt đẹp.

Tiếp đó Ngụy Nghiệp Chiêu nói với ta tất cả những bi thảm mà hắn gặp phải.

Mỗi người đều có sở thích đặc biệt của riêng mình, sở thích của Ngụy Nghiệp Chiêu chính là đá dế.

Nhưng Bệ hạ cho rằng, đối với người kế nghiệp đế quốc mà nói, đó là một sở thích không có tiền đồ, vậy nên đã nghiêm túc phê bình hắn.

Ngụy Nghiệp Chiêu đành phải ngầm duy trì sở thích này.

Hắn giấu dế trong một phòng hẻo lánh ở Đông Cung, mỗi đêm lấy danh nghĩa “khổ đọc” trộm đến gian phòng cùng trải qua quãng thời gian yên bình tốt đẹp với đám dế, đó dường như là thời khắc hạnh phúc nhất trong một ngày của hắn.

Nhưng mà vài ngày trước, phát sinh một việc ngoài ý muốn, Đại Tướng Quân Hồng Quang Biến Thể Uy Vũ Thường Thắng mà hắn trải qua biết bao khó khăn mới có được chẳng may bị lạc mất.

Mất đi thứ mình vô cùng yêu thích, nội tâm Hoàng Thái Tôn điện hạ vô cùng dày vò, hắn vừa không thể kinh động người bên ngoài, đề phòng Bệ hạ biết được, lại vừa không thể buông được vướng bận trong lòng, đành phải nhân lúc đêm khuya tìm kiếm ở các nơi hẻo lánh trong Đông Cung, thử tìm Đại Tướng Quân về.

Đêm nay, khi hắn đi qua viện của ta, ở ngoài tường vui mừng phát hiện tiếng kêu quen thuộc…

Lần đầu tiên ta và Ngụy Nghiệp Chiêu chính thức gặp mặt, có thể nói là đặc biệt hài hòa.

Trước khi hắn trèo tường rời đi, vẻ mặt nghiêm túc mà nói với ta: “Lý Thiết Trụ, tên của ngươi, ừm, có chút… cảm giác rường cột quốc gia, lúc ấy ta cười là do vui mừng.”

Nhưng những gì trải qua sau đó khiến ta không khỏi hoài nghi đêm nay hắn có phải là bị quỷ nhập thân hay không.

Bởi vì ta và Thái tử phi cùng xuất thân Vĩnh thành nên ngay từ đầu đã hình thành mối quan hệ bà mẫu nàng dâu vô cùng tốt đẹp. Sau khi ta học tập đã có chút thành tựu, Thái tử phi thường xuyên đưa ta đi theo bên người, ta cũng phải thường xuyên gặp mặt Ngụy Nghiệp Chiêu.

Nhưng mà Ngụy Nghiệp Chiêu lúc này và Ngụy Nghiệp Chiêu lúc đó, gần như không phải là cùng một người.

Mỗi tiếng nói cử động của hắn đều thể hiện thân phận Hoàng Thái Tôn cao quý, thái độ với ta cũng nho nhã lễ độ, lãnh đạm lại xa cách.

Thậm chí ta khó mà có thể tưởng tượng được cảnh hắn đào đất bắt dế.

Đồng thời ta cũng đã biết được một ít tin tức, nghe nói thật ra đối với cửa hôn sự này Ngụy Nghiệp Chiêu cũng không quá hài lòng, bởi vì hắn có một mối quan hệ thân mật, có thể nói là lưỡng tình tương duyệt với một cô nương.