Chương 8 - Trong Thôn Ngoài Thôn
[Chương 8]
Thôn Đào Thủy bắt đầu có người chết.
Người đầu tiên là tay ăn xin Chu Đại Lăng.
Bình thường, mỗi ngày anh ta đều đi khắp nơi, gõ cửa nhà các hương thân xin bát cơm ăn.
Tính anh ta cũng hiền lành. Người ta cho cơm, anh ta vui mừng nhận rồi đi nhà kế tiếp. Người ta không cho, anh ta cũng không buồn, chỉ chào một cái rồi đi nên dân thôn Đào Thủy không ghét bỏ anh ta.
Nhưng đột nhiên một hôm, dân thôn không thấy Chu Đại Lăng đến xin cơm. Có người tốt bụng đến ngôi miếu hoang anh ta ở xem thử, nhưng chỉ thấy thi thể lạnh ngắt của anh ta.
Ngỗ tác trên thị trấn che mặt chạy đến, không biết ông ta lo lắng nói gì với lý chính, làm lý chính sợ đến nhũn cả người.
- Ôn dịch! Là ôn dịch! Bà con mau về nhà hết đi!
Nhưng trốn trong nhà cũng phải thở đúng không? Ôn dịch là con quỷ vô hình, đến khi phát hiện được nó, nó đã ngấm vào người từ lâu rồi.
Có người đầu tiên sẽ có người thứ hai, dần dần, người thứ ba, bốn, năm, sáu,...
Ông lão mù kỳ quặc cuối cùng không nhịn được nữa, ông ấy che mặt, chống gậy đi châm cứu cho bệnh nhân trong thôn.
- Tôi từng châm chết người, mấy người có sợ không?
Mỗi lần đến một nhà, ông ấy lại hỏi như vậy.
Đến tầm này là còn nước còn tát, mọi người đương nhiên không sợ. Không chỉ không sợ, còn giục ông ấy mau cứu người đi.
Ông lão mù tay châm cứu, miệng dặn dò:
- Thu Muội đang sắc thuốc dưới cây hòe lớn, mau đi lấy mà uống, không phải trả tiền. Lần này tiền thuốc do Trần gia chi hết, nhớ lấy ơn người ta.
Tiệm mì vằn thắn trên thị trấn còn chút bạc, Vương Hành không ở đây, tôi bèn tự ý lấy ra dùng hết.
Bạc hết còn kiếm lại được, người chết đi sẽ không về nữa. Tôi tin Vương Hành sẽ hiểu ý tôi.
Được châm cứu và uống thuốc xong, bệnh nhân dần hồi phục, nhưng cái ôn dịch này thật sự quá kinh khủng. Ông lão mù sức đơn lực bạc, người phát sốt trong thôn Đào Thủy ngày một nhiều lên.
Tôi và bà Mã nhận việc sắc thuốc, Thu Muội giúp đi châm cứu cho bệnh nhân. Bệnh nhân đầu tiên con bé cứu được là thằng con thứ hai nhà Trương quả phụ.
Con nhóc này phán không sai, bây giờ người trong thôn Đào Thủy ai cũng xin được nó châm cứu cho.
Tháng mười một, Vương Hành lại đến Tùy Châu, đến giờ không có tin tức, tôi rất lo lắng.
Bây giờ ôn dịch lây lan, lòng người sợ hãi. Nghe nói trong cung cũng có người phát sốt rồi.
Anh ở ngoài một mình, lại là một cậu ấm vụng về không biết chăm sóc bản thân, lần này phải làm sao đây.
Ôi.
Trời đông giá rét, lòng tôi nhấp nhổm không yên. Hoảng sợ lo lắng như con rắn nước ướt nhẹp, cả ngày cứ quấn chặt lấy tôi không rời.
Tôi mơ thấy ác mộng.
Không, là bà nội mơ thấy ác mộng.
Vào tháng chạp, bà nội nhiễm bệnh, sốt cao không hạ, hôn mê bất tỉnh.
Bởi vì cả nhà đã uống thuốc sài hồ từ trước, chúng tôi vẫn ổn. Đông Bảo có sốt hai đêm nhưng cũng khỏi rất nhanh.
Chỉ có bà nội, châm cứu rồi, thuốc uống rồi mà vẫn mê man mãi không tỉnh.
Lúc thì mắt bà nội ngắm ghiền, khóc rống:
- Ông nó ơi, tôi có lỗi với ông. Thằng cả chết yểu, con út bị người ta ức hiếp. Tôi xuống đó không có mặt mũi gặp ông nữa!
Lúc thì lại trợn mắt nghiến răng:
- Nguy rồi! Quốc công phủ gặp nạn! Mình nhận ân huệ người ta, đập nồi bán sắt cũng phải giúp đỡ!
Bà Mã khóc sướt mướt, nắm chặt tay bà nội, sụt sùi:
- Lý Đại Hoa, chị của em ơi, nếu chị có mệnh hệ gì, em cũng không thiết sống nữa!
Thu Muội khóc lóc kéo ông lão mù về đây.
- Ông Điền…
Nhất thời giọng tôi nghẹn lại, không biết nói gì cho phải.
Ông lão mù khoát tay:
- Không cần nhiều lời, cứu người quan trọng.
Chưa đến một nén nhang, bà nội biến thành con nhím. Đỉnh đầu, mi tâm, cánh tay, hai chân, gan bàn chân, mỗi lần ông lão mù hạ châm, trái tim nhà tôi cứ thót hết cả lại.
Trơ mắt nhìn người thân mình bị bệnh tật hành hạ, ai chịu nổi chứ.
Cũng may trời đất phù hộ, đến nửa đêm, bà nội toát mồ hôi đầm đìa, uể oải kêu một tiếng đói bụng.
Tôi sờ trán bà, lạy trời lạy phật, hạ sốt rồi.
Trận ôn dịch chưa từng thấy này kéo dài từ lúc rét đậm đến đầu xuân, nghe nói chết mười mấy vạn người. Lão Hoàng đế cũng bị nhiễm, tuy đã khỏi nhờ được Ngự y chăm sóc cẩn thận, nhưng qua cơn bệnh này, sức khỏe của ngài ấy kém trước nhiều lắm.
Gió ở kinh thành, xem ra sắp chuyển hướng.
Đêm trừ tịch, thư của Vương Hành đến muộn. Trong thư, anh nói lần này phải đi xa, có việc níu chân. Anh chắc chắn có thể về kịp tháng ba khi tôi cập kê.
Tôi đếm ngón tay, một ngày, hai ngày, ba ngày…
Nhưng mãi đến lúc hoa dại trên núi nở rộ, ngày cập kê sắp đến, anh vẫn chưa về.
Thư viện Cô Trúc cho nghỉ vì ôn dịch, tiệm mì trên thị trấn cũng đã nghỉ từ lâu. Tôi không nhịn được đến khách sạn Thanh Phong tìm anh, tiểu nhị che mặt mở cửa, lo âu nói với tôi:
- Hôm qua Vương công tử đã về rồi, nhưng bị nhiễm bệnh, đang phát sốt.
Ra là vậy.
Thanh kiếm treo trên đầu tôi mấy tháng qua rơi xuống đúng lúc này.
Tôi bước vội đến trước giường anh. Anh lẳng lặng nằm ở đó, mi mục như họa, dung nhan như ngọc, giống như lần đầu gặp gỡ.
Trong kịch từng hát “tri hảo sắc tắc mộ thiếu ngải (*)”. Anh là quý công tử tuấn tú như vậy, tôi chỉ là một cô gái quê, sao lại không thích?
Nếu từ đầu không động lòng, sao lúc chưa biết thân phận anh đã tự tay là mũ hồ ly tặng anh chứ?
Chỉ là từ lúc mới gặp, tim đã rung rinh. Tôi những mong có thể cùng anh dãi dầu sương gió, dùng đôi tay chai sạn ủ ấm cho anh trong ngày đông giá rét. Nếu được Nguyệt lão se tơ hồng, tôi muốn nấu cơm giặt áo cho anh, cùng anh sinh con dưỡng cái, làm rất nhiều chuyện chỉ vợ chồng mới làm cùng nhau.
Nên anh không thể cô đơn lạnh lẽo nằm ở đây được.
Tôi, Trần Xuân Muội, phải đưa Vương Hành bình an vô sự về thôn Đào Thủy.
Có lẽ do thiên ý, hôm nay ra ngoài tôi đã mang theo hộp trang sức kia. Tôi nhờ tiểu nhị cầm trang sức đi mời thầy thuốc mát tay nhất thị trấn đến. Thầy thuốc chẩn mạch cho anh xong, không nhịn được nhíu mày.
- Có phải vị công tử này lúc trước từng bị thương không? Nếu không sao bệnh nặng thế này?
Tim tôi cứng lại:
- Xin thầy khám kỹ hơn đi ạ.
Thầy thuốc gật đầu, cởi áo của anh ra, những vết sẹo đỏ tươi hằn trên da thịt anh đập thẳng vào mắt tôi.
- Những vết roi quật này, xem ra đã có ba, bốn năm rồi…
Thầy thuốc tự nhủ.
Đã ba, bốn năm rồi sao?
Ba, bốn năm trước, có thể đánh anh ra thế này, ngoài cái họ Vương ở Thanh Châu ra còn ai vào đây nữa?
Công tử của tôi ơi…
Niên thiếu xuân sam bạc, kỵ mã ỷ tà kiều (*). Thiếu niên thanh cao kiêu ngạo như anh, đã làm sao qua những đêm dài cô độc với vết thương đớn đau này.
Tôi ngửa đầu, nuốt ngược nước mắt vào trong, gượng cười cầu xin thầy thuốc:
- Xin thầy thương xót, kê đơn thuốc cho anh ấy đi ạ.
- Ôi đừng khóc, đừng khóc. Để già này kê thuốc cho. Cháu gái nhà già gần bằng tuổi cháu, già sợ nhất là nhóc con đó khóc đấy.
Tôi khóc òa lên làm thầy thuốc giật mình:
- Ôi cái con bé này, đã bảo đừng khóc, sao lại khóc to hơn vậy.
Viết xong đơn thuốc, tiểu nhị chạy đi mua, trước khi ra về thầy thuốc còn dặn tôi:
- Đây là anh trai của cháu hay là…?
Tôi thốt lên:
- Đây là chồng chưa cưới của cháu.
Thầy thuốc vuốt ria mép:
- Vậy thì tiện hơn nhiều. Nửa đêm cháu phải để ý, chớ để nó phát sốt nữa. Chỉ cần qua được đêm nay, uống thuốc đều đặn mỗi ngày, dưỡng bệnh khoảng một, hai tháng là sẽ ổn.
Sau khi cảm ơn rối rít, tôi tiễn thầy thuốc về, lúc đi xa rồi thầy thuốc còn lầm bẩm:
- Mắt chọn chồng của con bé này tốt hơn cháu mình.
Đêm đó tôi không dám ngủ, vì thầy thuốc vừa đi thì Vương Hành lại phát sốt.
Tôi cởi áo anh, dùng khăn nóng lau người mấy lần, lại lấy thêm nước cho anh uống.
Nhưng sắc mặt anh càng ngày càng xám xịt, thuốc uống vào rồi mà một giọt mồ hôi cũng không thấy.
Mắt thấy chân trời lộ ra ánh sáng, mắt tôi đỏ ngầu, tóc tai ướt nhẹp mồ hôi. Tôi vuốt lên vầng trán nóng bỏng của anh, tâm trí như sụp đổ.
Tôi nằm nhoài lên lồng ngực lộ ra của anh, nện lên người anh, lắc người anh, vừa khóc vừa mắng.
- Vương Hành, anh mau mở mắt cho em! Em đã nói với thầy thuốc em là vợ chưa cưới của anh, anh mà chết, em sẽ thủ tiết cho anh!
- Đồ công tử bột miệng lưỡi ba hoa, sáng mai em cập kê rồi. Em mà không đi tìm anh, có phải cả lễ cập kê của em anh cũng không đến không?
- Anh là đồ vô liêm sỉ! Trêu chọc em rồi bỏ rơi em. Em nói cho anh biết, kiếp này đừng hòng chạy thoát! Không chỉ kiếp này, cả kiếp sau anh cũng phải làm trâu ngựa báo ơn cho em!
Trăng non vẫn treo ngoài cửa sổ, mây vẫn hờ hững trôi. Tôi ở trong phòng tóc tai bù xù, khóc lóc nỉ non.
Bỗng nhiên, có một bàn tay đặt lên đầu tôi. Tôi giật mình, nhấc gương mặt tèm lem nước mắt lên đối diện một đôi mắt đang mỉm cười.
- Cập kê, là có thể lập gia đình. Vương Hành tôi ngưỡng mộ em đã lâu, mong được em để mắt, chớ chê tôi trèo cao. Nếu được nên duyên vợ chồng, dù phải làm trâu ngựa, Hành tôi cũng cam tâm tình nguyện.
Dưới ánh nến mập mờ, anh vừa tỉnh giấc, dùng đôi môi khô nứt cùng giọng nói khàn khàn, thì thầm với tôi lời cầu hôn thâm tình nhất thế gian.
Lễ cập kê này của tôi cuối cùng không tổ chức được.
Vương Hành ngã bệnh, cả nhà tôi bận rộn, không chỉ sắp xuân canh, mà còn phải sắc thuốc châm cứu cho hương thân trong thôn.
Trước kiếp nạn sống chết, cập kê chỉ là chuyện nhỏ.
Đến tháng tư, Vương Hành đã khỏe hẳn, anh mang sính lễ phong phú đến thôn Đào Thủy.
Vừa vào cửa, anh quỳ ngay xuống trước mặt bà nội và cha mẹ tôi.
- Thưa bà nội, thưa cô chú, cháu phải lòng em Xuân Muội, muốn cưới em ấy làm vợ, nên hôm nay mang sính lễ đến cửa xin cầu thân.
- Cái gì??????
Anh chưa nói xong, bà nội đã giật mình nhảy dựng, cha mẹ tôi cũng trợn mắt ngoác mồm. Chỉ có bà Mã che miệng cười, ra vẻ đã biết từ sớm rồi.
Vương Hành quỳ thẳng lưng, khẳng định chắc nịch:
- Cháu xin cưới em Xuân Muội, mong được nội đồng ý.
Bà nội há hốc mồm, không tin nổi vào tai mình nữa, giọng nói cũng thay đổi:
- Cháu nói một cậu ấm như cháu muốn cưới Xuân Muội?
- Vâng, không phải Xuân Muội, cháu không cưới ai hết.
Bà nội lắc đầu quầy quậy:
- Nó không đọc được chữ.
Vương Hành vội đáp:
- Cháu ngũ cốc bất phân.
Bà nội từ chối:
- Nó là gái quê mùa.
Vương Hành nói ngay:
- Cháu là đứa không nhà.
Bà nội vẫn cứng miệng:
- Nhà bà không quyền không thế.
Vương Hành nhanh miệng đáp:
- Cháu từ lâu, không cha không mẹ.
Bà nội bó tay.
Bà nội còn thấy buồn bực, sao càng nói càng thấy hai đứa xứng đôi, là thiên duyên trời định thế nhỉ?
- Được rồi, chuyện này cứ vậy đi, nhưng gấp quá, còn chưa có bà mối…
Bà nội do dự xoa tay, vẫn có vẻ bất ngờ chưa biết làm sao.
Lúc này, bà Mã đang cười trộm đỏ mặt đứng dậy, cười hì hì với bà nội:
- Không phải có sẵn bà mối đây sao? Chị này, chị xem em được không?
Bà nội:
- Được rồi.
Mối hôn sự này cực kỳ suôn sẻ, suôn sẻ hơn dự liệu của tôi nhiều.
Tôi còn tưởng bà nội và cha sẽ xoắn xuýt chuyện không môn đăng hộ đối cơ.
Nhưng rồi tôi cũng nhận ra, từng bị tịch biên nhà cửa, gặp ôn dịch, mọi người khó khăn lắm mới trở về từ cõi chết, từ lâu đã nhìn thấu thế gia ấm lạnh. Môn đăng hộ đối sao bằng chân tâm thật lòng chứ?
Tôi chỉ không ngờ, mới qua dăm ba câu, người lớn đã bắt đầu chọn ngày kết hôn cho tôi và Vương Hành.
Ngoài tôi và Vương Hành, hôn nhân của anh họ cũng được định rồi.
Là Lưu Thủy Tú, con gái đồ tể Lưu trên thị trấn. Tên nghe mềm mại chứ người thì rắn chắc lắm. Nghe nói một lần nọ, anh họ tôi bị tiêu chảy, tự mình đến y quán mua thuốc. Nửa đường bụng đau không đứng lên được, hôm đó tình cờ Lưu Thủy Tú đi ngang qua, cô ấy hỏi rõ lý do sau đó không nói hai lời, cõng anh họ đi thẳng đến y quán.
Từ đó anh họ phải lòng cô ấy, suốt ngày kiếm cớ mua thịt ở quầy của đồ tể Lưu để làm quen với người đẹp. Cuối cùng sự chân thành lương thiện của anh ấy đã khiến cô ấy động lòng.
Cô tôi cũng rất hài lòng với cô con dâu tương lai này:
- Phụ nữ mà, đầy đặn một tí, về sau dễ có con.
Tôi đang nghĩ cách để vòng eo thon gọn chút.
- Hay thôi nhỉ.
Vương Hành ở cạnh tôi không nhịn được cười, ghé vào bên tai tôi thì thầm:
- Không sao, cứng hay mềm anh thích hết.
Mặt tôi đỏ bừng như cà chua, hờn dỗi nhéo hông anh một cái.
Lúc bọn tôi đang liếc mắt đưa tình với nhau, thì bầu trời kinh thành đổi sắc.
Hoàng đế già nhiễm bệnh, hậu phi hoàng tử không ai dám đến gần, chỉ có Tam hoàng tử từng bị giam cầm không ngủ không nghỉ, phụng dưỡng trước giường suốt nửa tháng.
Hắn tự mình thử thuốc, ủ ấm giường, Hoàng đế già sốt cao không hạ, hắn quỳ trước Phật tổ tự xin giảm thọ cứu cha, Hoàng đế già tỉnh lại, hắn xúc động khóc như mưa.
Hoàng đế già gần sáu mươi tuổi, trải qua một kiếp sinh tử đột nhiên giác ngộ. Khi lên triều, ngài hạ chỉ phong Tam hoàng tử có danh hiền đức làm Thái tử. Các hoàng tử còn lại được phong Vương, nhận lệnh không được rời khỏi đất phong, không chỉ không được vào kinh.
Triều đình trời đất rung chuyển, mưa to gió lớn. Hoàng đế già hành động nhanh như chớp, ngày thứ ba lập Thái tử đã chiếu cáo thiên hạ.
- Lúc lên ngôi Trẫm đã đốt hương khấn trời, nếu được trời đất phù hộ, sau khi trị vì hai mươi năm, Trẫm sẽ truyền ngôi, không dám hơn một năm so với Thế tổ khai quốc. Nay năm tháng đã tận, Trẫm nguyện rời bảo tọa, nhường ngôi cho Thái tử.
Từ đó, Hoàng đế già trở thành Thái thượng hoàng, một lòng cầu đạo, du sơn ngoạn thủy, trên đời không ai tiêu dao tự tại hơn ngài.
Tam hoàng tử đăng cơ thành tân hoàng, Tam hoàng tử phi, thê tử kết tóc từng chịu cảnh giam cầm với hắn trở thành đương kim Hoàng hậu.
Lúc tân hoàng đăng cơ là xuân canh, là mấy ngày bận rộn nhất ở thôn Đào Thủy.
Trong nhà thiếu nhân lực, người sắp thành rể hiền như Vương Hành đương nhiên phải giúp đỡ.
Dù mặc áo gấm lụa, giày thêu hoa, đến nhà bố vợ tương lai, con rể cũng phải xuống ruộng trồng trọt, cả người dính bùn mới có vẻ thành tâm.
Nhưng…
- Lưỡi cày này dùng thế nào?
Sau khi định thân, Vương Hành việc gì cũng tranh làm, chỉ tiếc giáo dục thế gia anh học từ nhỏ không có môn trồng trọt.
Cái câu “ngũ cốc bất phân” anh nói lúc cầu thân hóa ra là thật.
Nhìn anh ủ rũ cầm lưỡi cày, đi không được đứng yên không xong, tôi giả bộ giận xua tay:
- Ui ngốc quá đi mất, đến nhóc con bảy, tám tuổi cũng biết kéo cày, anh lại không học được.
Vương Hành lúng túng đến túa mồ hôi, nhưng lại lấy ra chiếc khăn tay giúp tôi lau mặt:
- Đừng giận đừng giận, anh biết dùng ngay mà.
Nhớ đến những vết sẹo đỏ trên người anh, tôi thở dài:
- Thôi, anh lên bờ ruộng ngồi nghỉ đi, thầy thuốc đã dặn anh phải tĩnh dưỡng mấy tháng để khỏi hẳn mới được. Những vết sẹo đó của anh, thực sự là…?
Anh gật đầu:
- Là gia pháp của Thanh Châu Vương thị.
Tôi giận tím mặt:
- Đúng là một đám lòng dạ đen tối mà! Vô tình vô nghĩa! Theo em thấy, chúng ta phải dứt sạch quan hệ với họ mới được!
Bây giờ, Vương Hành đã là em vợ của Hoàng hậu, tân hoàng đăng cơ, đám cỏ đầu thường Vương thị này lại nhen nhóm dã tâm, muốn dựa vào Vương Hành để nhét mấy con em trẻ tuổi của mình vào triều.
Vương Hành tính tình kiêu ngạo, sao chịu nghe theo? Nghe nói anh đã xé bỏ mấy phong thư từ Vân Châu rồi.
- Em yên tâm, từ lâu anh đã không còn là người của Vương thị nữa. Về sau người nhà của anh chỉ có Trần gia, Đỗ gia và nhà ngoại của anh thôi.
Tôi thở dài trong lòng, yên tâm?
Ôi, yên tâm không nổi.
Tôi và anh vốn rất xứng đôi. Dù sao một đứa một chữ bẻ đôi không biết, một đứa ngũ cốc bất phân. Một cô gái quê một người không nhà, một không quyền thế một không cha mẹ.
Nhưng hôm nay đời anh lên hương, là em vợ của tân hoàng, còn là loại rất thân nữa cơ.
Hôn nhân của bọn tôi, có còn chắc chắn như trước không?
Nghĩ đến chuyện này, tôi lại sầu chết đi được.
.
.
.
(*) Tri mộ thiếu ngải: Tri mộ thiếu ngải, ý nói con trai đến tuổi tình yêu chớm nở, liền biết ái mộ thiếu nữ xinh đẹp. Sau lại dùng để chỉ tình cảm đẹp đẽ đầu đời của người thiếu niên.
(*) Trích bài Bồ tát man kỳ 4 của Vi Trang.
Như kim khước ức Giang Nam lạc,
Đương thời niên thiếu thanh sam bạc.
Kỵ mã ỷ tà kiều,
Mãn lâu hồng tụ chiêu.
Thuý bình kim khuất khúc,
Tuý nhập hoa tùng túc.
Thử độ kiến hoa chi,
Bạch đầu thệ bất quy.
Bản dịch của Nguyễn Minh:
Nay nhớ niềm vui ở Giang Nam
Thiếu niên áo mỏng màu xanh lam
Cưỡi ngựa dựa cầu nghiêng
Áo hồng vẫy gọi liền
Bình phong hình chim thuý
Trong hoa say tuý luý
Từ đó thấy cành hoa
Đầu bạc thề chẳng ra.
Thôn Đào Thủy bắt đầu có người chết.
Người đầu tiên là tay ăn xin Chu Đại Lăng.
Bình thường, mỗi ngày anh ta đều đi khắp nơi, gõ cửa nhà các hương thân xin bát cơm ăn.
Tính anh ta cũng hiền lành. Người ta cho cơm, anh ta vui mừng nhận rồi đi nhà kế tiếp. Người ta không cho, anh ta cũng không buồn, chỉ chào một cái rồi đi nên dân thôn Đào Thủy không ghét bỏ anh ta.
Nhưng đột nhiên một hôm, dân thôn không thấy Chu Đại Lăng đến xin cơm. Có người tốt bụng đến ngôi miếu hoang anh ta ở xem thử, nhưng chỉ thấy thi thể lạnh ngắt của anh ta.
Ngỗ tác trên thị trấn che mặt chạy đến, không biết ông ta lo lắng nói gì với lý chính, làm lý chính sợ đến nhũn cả người.
- Ôn dịch! Là ôn dịch! Bà con mau về nhà hết đi!
Nhưng trốn trong nhà cũng phải thở đúng không? Ôn dịch là con quỷ vô hình, đến khi phát hiện được nó, nó đã ngấm vào người từ lâu rồi.
Có người đầu tiên sẽ có người thứ hai, dần dần, người thứ ba, bốn, năm, sáu,...
Ông lão mù kỳ quặc cuối cùng không nhịn được nữa, ông ấy che mặt, chống gậy đi châm cứu cho bệnh nhân trong thôn.
- Tôi từng châm chết người, mấy người có sợ không?
Mỗi lần đến một nhà, ông ấy lại hỏi như vậy.
Đến tầm này là còn nước còn tát, mọi người đương nhiên không sợ. Không chỉ không sợ, còn giục ông ấy mau cứu người đi.
Ông lão mù tay châm cứu, miệng dặn dò:
- Thu Muội đang sắc thuốc dưới cây hòe lớn, mau đi lấy mà uống, không phải trả tiền. Lần này tiền thuốc do Trần gia chi hết, nhớ lấy ơn người ta.
Tiệm mì vằn thắn trên thị trấn còn chút bạc, Vương Hành không ở đây, tôi bèn tự ý lấy ra dùng hết.
Bạc hết còn kiếm lại được, người chết đi sẽ không về nữa. Tôi tin Vương Hành sẽ hiểu ý tôi.
Được châm cứu và uống thuốc xong, bệnh nhân dần hồi phục, nhưng cái ôn dịch này thật sự quá kinh khủng. Ông lão mù sức đơn lực bạc, người phát sốt trong thôn Đào Thủy ngày một nhiều lên.
Tôi và bà Mã nhận việc sắc thuốc, Thu Muội giúp đi châm cứu cho bệnh nhân. Bệnh nhân đầu tiên con bé cứu được là thằng con thứ hai nhà Trương quả phụ.
Con nhóc này phán không sai, bây giờ người trong thôn Đào Thủy ai cũng xin được nó châm cứu cho.
Tháng mười một, Vương Hành lại đến Tùy Châu, đến giờ không có tin tức, tôi rất lo lắng.
Bây giờ ôn dịch lây lan, lòng người sợ hãi. Nghe nói trong cung cũng có người phát sốt rồi.
Anh ở ngoài một mình, lại là một cậu ấm vụng về không biết chăm sóc bản thân, lần này phải làm sao đây.
Ôi.
Trời đông giá rét, lòng tôi nhấp nhổm không yên. Hoảng sợ lo lắng như con rắn nước ướt nhẹp, cả ngày cứ quấn chặt lấy tôi không rời.
Tôi mơ thấy ác mộng.
Không, là bà nội mơ thấy ác mộng.
Vào tháng chạp, bà nội nhiễm bệnh, sốt cao không hạ, hôn mê bất tỉnh.
Bởi vì cả nhà đã uống thuốc sài hồ từ trước, chúng tôi vẫn ổn. Đông Bảo có sốt hai đêm nhưng cũng khỏi rất nhanh.
Chỉ có bà nội, châm cứu rồi, thuốc uống rồi mà vẫn mê man mãi không tỉnh.
Lúc thì mắt bà nội ngắm ghiền, khóc rống:
- Ông nó ơi, tôi có lỗi với ông. Thằng cả chết yểu, con út bị người ta ức hiếp. Tôi xuống đó không có mặt mũi gặp ông nữa!
Lúc thì lại trợn mắt nghiến răng:
- Nguy rồi! Quốc công phủ gặp nạn! Mình nhận ân huệ người ta, đập nồi bán sắt cũng phải giúp đỡ!
Bà Mã khóc sướt mướt, nắm chặt tay bà nội, sụt sùi:
- Lý Đại Hoa, chị của em ơi, nếu chị có mệnh hệ gì, em cũng không thiết sống nữa!
Thu Muội khóc lóc kéo ông lão mù về đây.
- Ông Điền…
Nhất thời giọng tôi nghẹn lại, không biết nói gì cho phải.
Ông lão mù khoát tay:
- Không cần nhiều lời, cứu người quan trọng.
Chưa đến một nén nhang, bà nội biến thành con nhím. Đỉnh đầu, mi tâm, cánh tay, hai chân, gan bàn chân, mỗi lần ông lão mù hạ châm, trái tim nhà tôi cứ thót hết cả lại.
Trơ mắt nhìn người thân mình bị bệnh tật hành hạ, ai chịu nổi chứ.
Cũng may trời đất phù hộ, đến nửa đêm, bà nội toát mồ hôi đầm đìa, uể oải kêu một tiếng đói bụng.
Tôi sờ trán bà, lạy trời lạy phật, hạ sốt rồi.
Trận ôn dịch chưa từng thấy này kéo dài từ lúc rét đậm đến đầu xuân, nghe nói chết mười mấy vạn người. Lão Hoàng đế cũng bị nhiễm, tuy đã khỏi nhờ được Ngự y chăm sóc cẩn thận, nhưng qua cơn bệnh này, sức khỏe của ngài ấy kém trước nhiều lắm.
Gió ở kinh thành, xem ra sắp chuyển hướng.
Đêm trừ tịch, thư của Vương Hành đến muộn. Trong thư, anh nói lần này phải đi xa, có việc níu chân. Anh chắc chắn có thể về kịp tháng ba khi tôi cập kê.
Tôi đếm ngón tay, một ngày, hai ngày, ba ngày…
Nhưng mãi đến lúc hoa dại trên núi nở rộ, ngày cập kê sắp đến, anh vẫn chưa về.
Thư viện Cô Trúc cho nghỉ vì ôn dịch, tiệm mì trên thị trấn cũng đã nghỉ từ lâu. Tôi không nhịn được đến khách sạn Thanh Phong tìm anh, tiểu nhị che mặt mở cửa, lo âu nói với tôi:
- Hôm qua Vương công tử đã về rồi, nhưng bị nhiễm bệnh, đang phát sốt.
Ra là vậy.
Thanh kiếm treo trên đầu tôi mấy tháng qua rơi xuống đúng lúc này.
Tôi bước vội đến trước giường anh. Anh lẳng lặng nằm ở đó, mi mục như họa, dung nhan như ngọc, giống như lần đầu gặp gỡ.
Trong kịch từng hát “tri hảo sắc tắc mộ thiếu ngải (*)”. Anh là quý công tử tuấn tú như vậy, tôi chỉ là một cô gái quê, sao lại không thích?
Nếu từ đầu không động lòng, sao lúc chưa biết thân phận anh đã tự tay là mũ hồ ly tặng anh chứ?
Chỉ là từ lúc mới gặp, tim đã rung rinh. Tôi những mong có thể cùng anh dãi dầu sương gió, dùng đôi tay chai sạn ủ ấm cho anh trong ngày đông giá rét. Nếu được Nguyệt lão se tơ hồng, tôi muốn nấu cơm giặt áo cho anh, cùng anh sinh con dưỡng cái, làm rất nhiều chuyện chỉ vợ chồng mới làm cùng nhau.
Nên anh không thể cô đơn lạnh lẽo nằm ở đây được.
Tôi, Trần Xuân Muội, phải đưa Vương Hành bình an vô sự về thôn Đào Thủy.
Có lẽ do thiên ý, hôm nay ra ngoài tôi đã mang theo hộp trang sức kia. Tôi nhờ tiểu nhị cầm trang sức đi mời thầy thuốc mát tay nhất thị trấn đến. Thầy thuốc chẩn mạch cho anh xong, không nhịn được nhíu mày.
- Có phải vị công tử này lúc trước từng bị thương không? Nếu không sao bệnh nặng thế này?
Tim tôi cứng lại:
- Xin thầy khám kỹ hơn đi ạ.
Thầy thuốc gật đầu, cởi áo của anh ra, những vết sẹo đỏ tươi hằn trên da thịt anh đập thẳng vào mắt tôi.
- Những vết roi quật này, xem ra đã có ba, bốn năm rồi…
Thầy thuốc tự nhủ.
Đã ba, bốn năm rồi sao?
Ba, bốn năm trước, có thể đánh anh ra thế này, ngoài cái họ Vương ở Thanh Châu ra còn ai vào đây nữa?
Công tử của tôi ơi…
Niên thiếu xuân sam bạc, kỵ mã ỷ tà kiều (*). Thiếu niên thanh cao kiêu ngạo như anh, đã làm sao qua những đêm dài cô độc với vết thương đớn đau này.
Tôi ngửa đầu, nuốt ngược nước mắt vào trong, gượng cười cầu xin thầy thuốc:
- Xin thầy thương xót, kê đơn thuốc cho anh ấy đi ạ.
- Ôi đừng khóc, đừng khóc. Để già này kê thuốc cho. Cháu gái nhà già gần bằng tuổi cháu, già sợ nhất là nhóc con đó khóc đấy.
Tôi khóc òa lên làm thầy thuốc giật mình:
- Ôi cái con bé này, đã bảo đừng khóc, sao lại khóc to hơn vậy.
Viết xong đơn thuốc, tiểu nhị chạy đi mua, trước khi ra về thầy thuốc còn dặn tôi:
- Đây là anh trai của cháu hay là…?
Tôi thốt lên:
- Đây là chồng chưa cưới của cháu.
Thầy thuốc vuốt ria mép:
- Vậy thì tiện hơn nhiều. Nửa đêm cháu phải để ý, chớ để nó phát sốt nữa. Chỉ cần qua được đêm nay, uống thuốc đều đặn mỗi ngày, dưỡng bệnh khoảng một, hai tháng là sẽ ổn.
Sau khi cảm ơn rối rít, tôi tiễn thầy thuốc về, lúc đi xa rồi thầy thuốc còn lầm bẩm:
- Mắt chọn chồng của con bé này tốt hơn cháu mình.
Đêm đó tôi không dám ngủ, vì thầy thuốc vừa đi thì Vương Hành lại phát sốt.
Tôi cởi áo anh, dùng khăn nóng lau người mấy lần, lại lấy thêm nước cho anh uống.
Nhưng sắc mặt anh càng ngày càng xám xịt, thuốc uống vào rồi mà một giọt mồ hôi cũng không thấy.
Mắt thấy chân trời lộ ra ánh sáng, mắt tôi đỏ ngầu, tóc tai ướt nhẹp mồ hôi. Tôi vuốt lên vầng trán nóng bỏng của anh, tâm trí như sụp đổ.
Tôi nằm nhoài lên lồng ngực lộ ra của anh, nện lên người anh, lắc người anh, vừa khóc vừa mắng.
- Vương Hành, anh mau mở mắt cho em! Em đã nói với thầy thuốc em là vợ chưa cưới của anh, anh mà chết, em sẽ thủ tiết cho anh!
- Đồ công tử bột miệng lưỡi ba hoa, sáng mai em cập kê rồi. Em mà không đi tìm anh, có phải cả lễ cập kê của em anh cũng không đến không?
- Anh là đồ vô liêm sỉ! Trêu chọc em rồi bỏ rơi em. Em nói cho anh biết, kiếp này đừng hòng chạy thoát! Không chỉ kiếp này, cả kiếp sau anh cũng phải làm trâu ngựa báo ơn cho em!
Trăng non vẫn treo ngoài cửa sổ, mây vẫn hờ hững trôi. Tôi ở trong phòng tóc tai bù xù, khóc lóc nỉ non.
Bỗng nhiên, có một bàn tay đặt lên đầu tôi. Tôi giật mình, nhấc gương mặt tèm lem nước mắt lên đối diện một đôi mắt đang mỉm cười.
- Cập kê, là có thể lập gia đình. Vương Hành tôi ngưỡng mộ em đã lâu, mong được em để mắt, chớ chê tôi trèo cao. Nếu được nên duyên vợ chồng, dù phải làm trâu ngựa, Hành tôi cũng cam tâm tình nguyện.
Dưới ánh nến mập mờ, anh vừa tỉnh giấc, dùng đôi môi khô nứt cùng giọng nói khàn khàn, thì thầm với tôi lời cầu hôn thâm tình nhất thế gian.
Lễ cập kê này của tôi cuối cùng không tổ chức được.
Vương Hành ngã bệnh, cả nhà tôi bận rộn, không chỉ sắp xuân canh, mà còn phải sắc thuốc châm cứu cho hương thân trong thôn.
Trước kiếp nạn sống chết, cập kê chỉ là chuyện nhỏ.
Đến tháng tư, Vương Hành đã khỏe hẳn, anh mang sính lễ phong phú đến thôn Đào Thủy.
Vừa vào cửa, anh quỳ ngay xuống trước mặt bà nội và cha mẹ tôi.
- Thưa bà nội, thưa cô chú, cháu phải lòng em Xuân Muội, muốn cưới em ấy làm vợ, nên hôm nay mang sính lễ đến cửa xin cầu thân.
- Cái gì??????
Anh chưa nói xong, bà nội đã giật mình nhảy dựng, cha mẹ tôi cũng trợn mắt ngoác mồm. Chỉ có bà Mã che miệng cười, ra vẻ đã biết từ sớm rồi.
Vương Hành quỳ thẳng lưng, khẳng định chắc nịch:
- Cháu xin cưới em Xuân Muội, mong được nội đồng ý.
Bà nội há hốc mồm, không tin nổi vào tai mình nữa, giọng nói cũng thay đổi:
- Cháu nói một cậu ấm như cháu muốn cưới Xuân Muội?
- Vâng, không phải Xuân Muội, cháu không cưới ai hết.
Bà nội lắc đầu quầy quậy:
- Nó không đọc được chữ.
Vương Hành vội đáp:
- Cháu ngũ cốc bất phân.
Bà nội từ chối:
- Nó là gái quê mùa.
Vương Hành nói ngay:
- Cháu là đứa không nhà.
Bà nội vẫn cứng miệng:
- Nhà bà không quyền không thế.
Vương Hành nhanh miệng đáp:
- Cháu từ lâu, không cha không mẹ.
Bà nội bó tay.
Bà nội còn thấy buồn bực, sao càng nói càng thấy hai đứa xứng đôi, là thiên duyên trời định thế nhỉ?
- Được rồi, chuyện này cứ vậy đi, nhưng gấp quá, còn chưa có bà mối…
Bà nội do dự xoa tay, vẫn có vẻ bất ngờ chưa biết làm sao.
Lúc này, bà Mã đang cười trộm đỏ mặt đứng dậy, cười hì hì với bà nội:
- Không phải có sẵn bà mối đây sao? Chị này, chị xem em được không?
Bà nội:
- Được rồi.
Mối hôn sự này cực kỳ suôn sẻ, suôn sẻ hơn dự liệu của tôi nhiều.
Tôi còn tưởng bà nội và cha sẽ xoắn xuýt chuyện không môn đăng hộ đối cơ.
Nhưng rồi tôi cũng nhận ra, từng bị tịch biên nhà cửa, gặp ôn dịch, mọi người khó khăn lắm mới trở về từ cõi chết, từ lâu đã nhìn thấu thế gia ấm lạnh. Môn đăng hộ đối sao bằng chân tâm thật lòng chứ?
Tôi chỉ không ngờ, mới qua dăm ba câu, người lớn đã bắt đầu chọn ngày kết hôn cho tôi và Vương Hành.
Ngoài tôi và Vương Hành, hôn nhân của anh họ cũng được định rồi.
Là Lưu Thủy Tú, con gái đồ tể Lưu trên thị trấn. Tên nghe mềm mại chứ người thì rắn chắc lắm. Nghe nói một lần nọ, anh họ tôi bị tiêu chảy, tự mình đến y quán mua thuốc. Nửa đường bụng đau không đứng lên được, hôm đó tình cờ Lưu Thủy Tú đi ngang qua, cô ấy hỏi rõ lý do sau đó không nói hai lời, cõng anh họ đi thẳng đến y quán.
Từ đó anh họ phải lòng cô ấy, suốt ngày kiếm cớ mua thịt ở quầy của đồ tể Lưu để làm quen với người đẹp. Cuối cùng sự chân thành lương thiện của anh ấy đã khiến cô ấy động lòng.
Cô tôi cũng rất hài lòng với cô con dâu tương lai này:
- Phụ nữ mà, đầy đặn một tí, về sau dễ có con.
Tôi đang nghĩ cách để vòng eo thon gọn chút.
- Hay thôi nhỉ.
Vương Hành ở cạnh tôi không nhịn được cười, ghé vào bên tai tôi thì thầm:
- Không sao, cứng hay mềm anh thích hết.
Mặt tôi đỏ bừng như cà chua, hờn dỗi nhéo hông anh một cái.
Lúc bọn tôi đang liếc mắt đưa tình với nhau, thì bầu trời kinh thành đổi sắc.
Hoàng đế già nhiễm bệnh, hậu phi hoàng tử không ai dám đến gần, chỉ có Tam hoàng tử từng bị giam cầm không ngủ không nghỉ, phụng dưỡng trước giường suốt nửa tháng.
Hắn tự mình thử thuốc, ủ ấm giường, Hoàng đế già sốt cao không hạ, hắn quỳ trước Phật tổ tự xin giảm thọ cứu cha, Hoàng đế già tỉnh lại, hắn xúc động khóc như mưa.
Hoàng đế già gần sáu mươi tuổi, trải qua một kiếp sinh tử đột nhiên giác ngộ. Khi lên triều, ngài hạ chỉ phong Tam hoàng tử có danh hiền đức làm Thái tử. Các hoàng tử còn lại được phong Vương, nhận lệnh không được rời khỏi đất phong, không chỉ không được vào kinh.
Triều đình trời đất rung chuyển, mưa to gió lớn. Hoàng đế già hành động nhanh như chớp, ngày thứ ba lập Thái tử đã chiếu cáo thiên hạ.
- Lúc lên ngôi Trẫm đã đốt hương khấn trời, nếu được trời đất phù hộ, sau khi trị vì hai mươi năm, Trẫm sẽ truyền ngôi, không dám hơn một năm so với Thế tổ khai quốc. Nay năm tháng đã tận, Trẫm nguyện rời bảo tọa, nhường ngôi cho Thái tử.
Từ đó, Hoàng đế già trở thành Thái thượng hoàng, một lòng cầu đạo, du sơn ngoạn thủy, trên đời không ai tiêu dao tự tại hơn ngài.
Tam hoàng tử đăng cơ thành tân hoàng, Tam hoàng tử phi, thê tử kết tóc từng chịu cảnh giam cầm với hắn trở thành đương kim Hoàng hậu.
Lúc tân hoàng đăng cơ là xuân canh, là mấy ngày bận rộn nhất ở thôn Đào Thủy.
Trong nhà thiếu nhân lực, người sắp thành rể hiền như Vương Hành đương nhiên phải giúp đỡ.
Dù mặc áo gấm lụa, giày thêu hoa, đến nhà bố vợ tương lai, con rể cũng phải xuống ruộng trồng trọt, cả người dính bùn mới có vẻ thành tâm.
Nhưng…
- Lưỡi cày này dùng thế nào?
Sau khi định thân, Vương Hành việc gì cũng tranh làm, chỉ tiếc giáo dục thế gia anh học từ nhỏ không có môn trồng trọt.
Cái câu “ngũ cốc bất phân” anh nói lúc cầu thân hóa ra là thật.
Nhìn anh ủ rũ cầm lưỡi cày, đi không được đứng yên không xong, tôi giả bộ giận xua tay:
- Ui ngốc quá đi mất, đến nhóc con bảy, tám tuổi cũng biết kéo cày, anh lại không học được.
Vương Hành lúng túng đến túa mồ hôi, nhưng lại lấy ra chiếc khăn tay giúp tôi lau mặt:
- Đừng giận đừng giận, anh biết dùng ngay mà.
Nhớ đến những vết sẹo đỏ trên người anh, tôi thở dài:
- Thôi, anh lên bờ ruộng ngồi nghỉ đi, thầy thuốc đã dặn anh phải tĩnh dưỡng mấy tháng để khỏi hẳn mới được. Những vết sẹo đó của anh, thực sự là…?
Anh gật đầu:
- Là gia pháp của Thanh Châu Vương thị.
Tôi giận tím mặt:
- Đúng là một đám lòng dạ đen tối mà! Vô tình vô nghĩa! Theo em thấy, chúng ta phải dứt sạch quan hệ với họ mới được!
Bây giờ, Vương Hành đã là em vợ của Hoàng hậu, tân hoàng đăng cơ, đám cỏ đầu thường Vương thị này lại nhen nhóm dã tâm, muốn dựa vào Vương Hành để nhét mấy con em trẻ tuổi của mình vào triều.
Vương Hành tính tình kiêu ngạo, sao chịu nghe theo? Nghe nói anh đã xé bỏ mấy phong thư từ Vân Châu rồi.
- Em yên tâm, từ lâu anh đã không còn là người của Vương thị nữa. Về sau người nhà của anh chỉ có Trần gia, Đỗ gia và nhà ngoại của anh thôi.
Tôi thở dài trong lòng, yên tâm?
Ôi, yên tâm không nổi.
Tôi và anh vốn rất xứng đôi. Dù sao một đứa một chữ bẻ đôi không biết, một đứa ngũ cốc bất phân. Một cô gái quê một người không nhà, một không quyền thế một không cha mẹ.
Nhưng hôm nay đời anh lên hương, là em vợ của tân hoàng, còn là loại rất thân nữa cơ.
Hôn nhân của bọn tôi, có còn chắc chắn như trước không?
Nghĩ đến chuyện này, tôi lại sầu chết đi được.
.
.
.
(*) Tri mộ thiếu ngải: Tri mộ thiếu ngải, ý nói con trai đến tuổi tình yêu chớm nở, liền biết ái mộ thiếu nữ xinh đẹp. Sau lại dùng để chỉ tình cảm đẹp đẽ đầu đời của người thiếu niên.
(*) Trích bài Bồ tát man kỳ 4 của Vi Trang.
Như kim khước ức Giang Nam lạc,
Đương thời niên thiếu thanh sam bạc.
Kỵ mã ỷ tà kiều,
Mãn lâu hồng tụ chiêu.
Thuý bình kim khuất khúc,
Tuý nhập hoa tùng túc.
Thử độ kiến hoa chi,
Bạch đầu thệ bất quy.
Bản dịch của Nguyễn Minh:
Nay nhớ niềm vui ở Giang Nam
Thiếu niên áo mỏng màu xanh lam
Cưỡi ngựa dựa cầu nghiêng
Áo hồng vẫy gọi liền
Bình phong hình chim thuý
Trong hoa say tuý luý
Từ đó thấy cành hoa
Đầu bạc thề chẳng ra.