Chương 3 - Tình Yêu Giữa Mã Phu Và Thế Tử
13.
Ngày thánh chỉ đến, toàn phủ chấn động.
Trương Tần Thương quỳ tiếp chỉ, sống lưng thẳng tắp.
“Phong Trương Tần Thương làm Phiêu kỵ tướng quân, lập tức lên đường, chi viện Bắc cương…”
Bọn hạ nhân trợn mắt há hốc.
Khăn tay của Xuân Đào cũng rơi xuống đất.
Sau khi đứng dậy, người đầu tiên hắn nhìn là ta.
Trước lúc lên đường, hắn đến tìm ta.
“Cái này cho cô.” Hắn đưa ta một miếng ngọc hình hổ.
“Là mẫu thân ta để lại.”
Ta nhận lấy ngọc, lấy từ trong người ra một bùa bình an: “Ta xin từ chùa.”
Hắn cười, khóe mắt lộ nếp nhăn mảnh: “Đợi ta về, dạy cô viết chữ ‘khải hoàn’.”
Ta gật đầu, mắt rưng rưng lệ.
14.
Ngày thứ hai sau khi hắn đi, thế tử bất ngờ tìm đến ta.
“Không ngờ ánh mắt nhìn người của ngươi lại chuẩn thế.” Thế tử vừa chơi chén trà vừa nói.
“Sớm biết thế, lẽ ra nên thu ngươi vào phòng trước rồi.”
Ta cúi đầu: “Nô tỳ ngu dốt.”
Thế tử bật cười khẽ: “Nếu hắn chết nơi sa trường, ngươi có muốn vào viện ta không?”
Ta ngẩng đầu nhìn hắn, từng chữ rõ ràng: “Tướng quân nhất định sẽ khải hoàn.”
Khoảnh khắc ấy, ta quên mất thân phận, trong mắt chỉ còn lại kiên định.
Năm ngày sau khi Trương Tần Thương rời phủ, người viện thế tử đến truyền lời, nói thư phòng thiếu người mài mực.
Ta biết thế tử chưa từ bỏ.
Đến thư phòng, thế tử không có ở đó, chỉ có một bức tranh chưa hoàn thành trên bàn.
Là một tiểu nha hoàn có ngũ quan giống ta đôi chút, nhưng mặc áo váy của tiểu thư.
Ta lặng lẽ mài mực, không một biểu cảm, chỉ là cố ý cho thêm nhiều nước vào nghiên, khiến mực luôn loãng.
Thế tử trở về thấy vậy, cau mày, nhưng cuối cùng cũng không nói gì.
15.
Xuân Đào được đề bạt làm nha hoàn nhất đẳng ở viện thế tử.
Nàng mặc váy lụa hồ mới phát, xoay vòng trước mặt ta: “Tiểu Phiến, lúc trước nếu ngươi chịu đi, cái váy này giờ là của ngươi rồi.”
Ta cúi đầu vá lại chiếc áo cũ Trương Tần Thương để lại, không ngẩng lên: “Tay ta vụng, không hầu hạ nổi người quý.”
Chiều đó, biên cương truyền tin thắng trận, Trương tướng quân tập kích trại địch, đại thắng trở về.
Cả phủ xôn xao bàn tán, khen Trương tướng quân dùng binh như thần.
Chỉ mình ta để ý, trong chiến báo nói hắn trúng tên ở vai trái.
Tối đến, ta đối diện chiếc áo cũ đó, ở vị trí vai trái, lặng lẽ thêu một đóa vân văn thật nhỏ.
Cầu mong hắn bình an.
16.
Thế tử hình như đã hết kiên nhẫn.
Hắn chặn đường ta về phòng, trên người nồng nặc mùi rượu: “Một tên mã phu mà cũng đáng để ngươi chờ sao?”
Ta lùi một bước, siết chặt cây kéo trong tay áo: “Huynh ấy là tướng quân.”
“Tướng quân?” Thế tử cười lạnh.
“Hắn có thể sống trở về hay không còn chưa biết…”
Lời chưa dứt, sau lưng đã vang lên tiếng quát của lão hầu gia: “Nghịch tử!”
Sau đó, ta bị điều đến viện của lão phu nhân hầu hạ.
Lão phu nhân tin Phật, thường bảo ta tụng kinh.
Chuyện ta biết chữ cứ thế truyền ra.
“Thật hiếm có.” Lão phu nhân lần tràng hạt.
“Đã biết chữ thì từ nay giúp ta chép kinh đi.”
Ta hiểu, đó là lão phu nhân đang bảo vệ ta.
Việc chép kinh không những nhàn hạ, mà còn được tăng tiền lương.
Ta dùng số tiền tích góp, nhờ bà mối bên phòng hậu cần mua cho một quyển Thiên Tự Văn.
Đêm khuya yên tĩnh, ta ngồi dưới ánh đèn dầu, nhận từng chữ một.
Lúc hoang hoang hốt hốt, luôn cảm thấy hắn vẫn đang sau lưng, bất cứ lúc nào cũng sẽ nắm tay ta chỉnh nét viết.
17.
Chiến sự biên ải giằng co, báo thắng và danh sách thương vong thay nhau truyền đến.
Mỗi lần có tuấn mã phi vào phủ, ta đều như ngồi trên đống lửa.
Có lần danh sách ghi một người họ Trương, mắt ta tối sầm.
Sau mới biết là trùng họ.
Thế tử sắp thành thân, cưới con gái nhà Thượng thư bộ Binh.
Cả phủ bận rộn đến mức không ai có thời gian thở.
Trong đồ cưới của tân nương, có một chiếc giáp mềm thêu chỉ vàng, nghe nói đao thương bất nhập.
Ta nhìn chằm chằm chiếc giáp ấy rất lâu.
Nếu hắn cũng có một cái như vậy nơi chiến trường thì tốt rồi.
Ngày đại hôn, toàn phủ đèn kết rực rỡ.
Ta trốn trong Phật đường chép kinh, nghe thấy bên ngoài có người khẽ gọi ta.
Là phó tướng của Trương Tần Thương, bụi đường đầy mình.
“Tướng quân bảo ta giao cái này cho cô nương.”
Đó là một bọc vải dính máu, bên trong có mấy viên đá quý dị vực, và một phong thư.
Trên thư chỉ có bốn chữ: [Bình an, chớ nhớ.]
Nét chữ cẩu thả, rõ là viết trong lúc vội vàng.
Ta chôn mấy viên đá quý ấy dưới gốc quế nơi góc viện.
Như thể chôn đi một bí mật chỉ mình ta biết.
Lão phu nhân thấy dạo này ta chép kinh đặc biệt chăm chỉ, thưởng cho ta một đôi vòng bạc.
Ta tạ ơn, rồi lập tức đem vòng đi cầm, đưa toàn bộ bạc cho phó tướng mang đến biên cương.
Ta biết, hắn cần.
Lần sau phó tướng quay lại, đã là nửa năm sau.
Thư của Trương Tần Thương dày hơn lần trước, ngoài báo bình an, còn có thêm vài chuyện vặt ở biên ải.
Hắn nói nơi đó đã có trận tuyết đầu tiên, nói tướng sĩ dùng nước tuyết nấu trà, vị trà thuần khiết.
Cuối thư, hắn viết: [Thấy thư như thấy người, mong ngày gặp lại.]
Ta áp thư lên ngực.
Cảm giác nét mực kia như còn mang theo hơi ấm của hắn.