Chương 9 - Người Vợ Thừa Thãi
Tuyết bụi rơi lất phất lên má, lạnh cắt da, nhưng cũng mang theo hơi thở của sự sống!
“Vương phi! Vương phi tỉnh rồi! Người thật sự tỉnh rồi!”
Gương mặt Vân Tú lem bùn đẫm lệ hiện trên mép quan.
Nàng run run đưa tay rà trước mũi ta, cảm được hơi ấm mỏng manh nhưng chân thực, bèn bật khóc òa:
“Sống rồi! Phật tổ phù hộ! Sống rồi!”
Hai gã tráng đinh mặc ngắn áo, vẻ chất phác mà ánh mắt ngập lo lắng, chính là người Vân Tú dùng bạc thuê, cũng ghé lại nhìn, mặt mày kinh hãi không dám tin:
“Thật… thật sống lại ư? Trời ơi… đúng là kỳ tích…”
“Nhanh! Đỡ vương phi ra! Rời khỏi đây đã!”, Vân Tú bừng tỉnh, giục cuống cuồng.
Toàn thân ta lạnh cóng cứng đờ, tứ chi như đổ chì; nhất là bụng, từng cơn nặng trĩu đau quặn dồn dập.
Ta cắn chặt răng, nhờ Vân Tú và hai gã kia dìu đỡ, chậm chạp bò ra khỏi quan tài lạnh băng.
Dưới chân là đống đất tơi vừa đào xới.
Bên cạnh là một nấm mộ mới đắp, cô độc giữa gió tuyết.
Trên bia khắc những nét chữ lạnh như sắt:
[Mộ của Tĩnh vương Trắc phi, Giang thị Tẩm Nguyệt].
Trắc phi.
Ta nhìn chằm chằm tấm bia, khóe môi nhếch lên một nụ cười còn khó coi hơn khóc.
Yến Trầm Chu, ngươi quả là lạnh lùng đến tận xương.
“Vương phi, người thế nào? Cái bụng…”
Vân Tú đỡ ta, nhìn khối bụng nhô cao mà mặt tái nhợt.
Những cơn đè nặng nơi bụng càng lúc càng gấp.
Ta tựa vào bia mộ lạnh buốt, há miệng thở dốc, mồ hôi lạnh lập tức thấm ướt áo lót.
“Đứa nhỏ… sắp… sắp ra rồi…”, ta nghiến răng, gằn từng tiếng.
Sinh non!
Ngay giữa nghĩa địa lạnh ngắt!
“Hả?!”, Vân Tú và hai gã tráng đinh đều hồn vía lên mây.
“Mau! Tìm chỗ… tránh gió!”, ta ghì chặt cánh tay Vân Tú, móng tay gần như hằn vào thịt, dồn chút sức tàn rít lên,
“Giúp ta… đỡ đẻ!”
Kinh hoảng chụp lấy tất cả.
Nhưng bản năng cầu sinh, và quyết liệt liều chết của Vân Tú, mau chóng đè bẹp nỗi sợ.
“Bên kia! Có cái chòi rơm bỏ hoang của người giữ mộ! Nhanh!”, một gã chỉ về phía bóng đen lờ mờ không xa.
Mọi người lật đật, gần như kéo – dìu – bế, loạng choạng lao vào căn lều rơm rách nát, bốn bề lộng gió, ẩm mốc nồng nặc.
Trong lều chỉ có một đống rơm khô.
Vân Tú vừa khóc vừa trải rơm, đỡ ta nằm xuống.
Cơn đau như thủy triều, tràn lên từng đợt, từng đợt, xé toạc thân thể ta.
Không có nước ấm, không kéo cắt, không vải sạch, chẳng có gì cả.
Chỉ có gió lạnh rít bên ngoài và không khí băng giá trong căn chòi rơm mục nát.
“Vương phi! Người phải cố! Cố lên!”
Vân Tú quỳ ngay bên ta, cả người run cầm cập vì sợ, nhưng vẫn gắng giữ bình tĩnh, làm theo những gì từng nghe lão mụ trong phủ chỉ dạy năm xưa, giọng khàn đi:
“Hít sâu… nào, hít sâu! Dồn sức đi, Vương phi!”
Hai gã phu được thuê đứng ngoài chòi, quay lưng lại, vừa cảnh giới vừa hoảng loạn đến mức run tay.
Thời gian kéo dài như vô tận.
Mỗi lần dùng sức, là mỗi lần như dốc cạn sinh mệnh.
Mồ hôi, nước mắt và máu hòa thành một dòng, chảy ướt cả rơm dưới thân.
Ý thức ta chập chờn giữa cơn đau và rét lạnh.
Ta cắn nát môi, mùi máu tanh ngập miệng.
Trong đầu chỉ còn duy nhất một ý niệm:
Phải sống! Phải mang con đi khỏi đây! Phải rời khỏi Yến Trầm Chu!
Không biết đã qua bao lâu.
Khi ta tưởng như sắp ngất đi, kiệt sức hoàn toàn,
“Oe, , !”
Một tiếng khóc non nớt, yếu ớt mà vang dội, xé toang bầu không khí chết chóc của nghĩa địa đêm.
Như tiếng nhạc trời rót xuống nhân gian.
“Sinh rồi! Sinh rồi! Vương phi! Là tiểu công tử! Là công tử a!”
Giọng Vân Tú nghẹn ngào vì mừng, vừa khóc vừa cười.
Nàng vội xé tấm áo lót sạch của mình, quấn lấy đứa bé đỏ hỏn, nhăn nheo, dính đầy máu.
Ta cố nhấc đầu, qua khe hở của mái rơm rách, ánh sáng yếu ớt rọi xuống,
Ta nhìn thấy sinh linh bé nhỏ đang động đậy trong lòng mình.
Nhỏ bé, đỏ au, đôi mắt khép chặt, như một chú mèo con yếu ớt, nhưng, đang sống.
Con ta.
Đứa con mà ta và Yến Trầm Chu cùng tạo ra.
Không,
Đây là con của ta.
Chỉ thuộc về Giang Tẩm Nguyệt mà thôi.
Một cơn mệt mỏi khủng khiếp ập đến, xen lẫn niềm vui sống sót.
Trước mắt tối sầm, ta ngất lịm.
Giang Nam – trấn nhỏ ven sông.
Ba năm trôi qua lặng lẽ như dòng sông êm đềm ngoài trấn, gột rửa mọi kinh hồn và đau đớn, để lại chỉ sự bình hòa tĩnh tại.
Bên bờ sông có một quán trà nhỏ, treo tấm bảng gỗ giản đơn:
“Giang Ký Trà Phố.”
Mùi trà thoang thoảng xen lẫn hương bánh ngọt bay khắp gian nhà.
“A nương! A nương! Thúc thúc Thẩm lại mang ngựa gỗ cho con nè!”
Một bé trai chừng ba tuổi, mặc áo bông xanh mặt mũm mĩm đáng yêu, giơ cao con ngựa gỗ chạm tinh xảo, lao vào lòng người phụ nữ đang cúi đầu tính sổ.
Nàng ngẩng đầu, lộ ra gương mặt thanh lệ, hiền hòa.
Năm tháng chẳng để lại bao vết tích, chỉ gột đi nhợt nhạt ngày xưa, để lại nét dịu dàng trầm tĩnh.
Chính là ta, Giang Tẩm Nguyệt, người từng “chết” trong quan tài lạnh.
Ta buông bút, mỉm cười ôm lấy “tiểu pháo đạn” kia, nhéo nhẹ má con:
“Chạy chậm thôi, coi chừng té. Con có cảm ơn thúc thúc chưa?”