Chương 2 - Mưu Kế Của Hoàng Hậu
Khi ấy ta đau đớn tuyệt vọng, chẳng ăn chẳng uống, còn chìm trong nỗi mất con sâu thẳm.
Lưu Linh bưng vào chiếc bánh “vân phiến cao” mà mẫu thân khi xưa từng thích làm cho ta, lại nói ra một ít chân tướng.
Ngày ấy ta ngồi chết lặng trong gian phòng tối, mụ mụ bên cạnh rơi lệ, còn Lưu Linh đặt chiếc đĩa bánh trước mặt ta, cúi đầu, khẽ bẻ một miếng, đặt vào tay ta:
“Ngươi như thế này, chẳng phải là để người ta vừa ý hay sao? Há chẳng phải Uyên nhi cùng Vân Khởi sẽ chết uổng sao?”
Khi ấy, kẻ mất con không chỉ có ta.
Trưởng tôn của Tân gia, đứa con đầu lòng của Lưu Linh — Tân Vân Khởi — cũng cùng thái tử rơi xuống dòng nước xiết, xương cốt chẳng tìm thấy.
Một người tẩu hiền lành đến thế, một Lưu Linh thấu tỏ mọi điều, lại phải chết trong nỗi nhục nhã tột cùng.
Mà ta, còn ôm chút ảo vọng cuối cùng đối với Tiêu Bách, tự tay hại chết đại tẩu.
3
Nhờ ta khẩn cầu, Lưu Linh không được nhập táng nơi phần mộ tổ tiên, chỉ được chôn tạm ở ngoại ô kinh thành.
Việc này khiến Tiêu Bách vô cùng hài lòng, lệnh ban thưởng chảy như nước vào Trường Định cung, đến cả đứa cháu tám tuổi cũng được phong tước.
Một thời, phủ Trấn Bắc tướng quân danh vọng tột đỉnh, cả kinh thành ai chẳng biết ta — vị hoàng hậu được sủng ái nhất hậu cung, đến cả quý phi vốn ưa gây chuyện cũng yên lặng mấy hôm.
Ta chỉ lặng lẽ nhìn cảnh dầu sôi lửa bỏng ấy, trong lòng rõ rằng — Tiêu Bách đã tính đến bước hạ thủ với phụ thân và ta.
Từ ngày hắn đăng cơ đến nay, đã hơn mười năm.
Tân Hồng, phụ thân ta, như chiếc xương mắc nơi cổ hắn, nuốt chẳng trôi, nhả chẳng ra.
Ngày trước triều cục chưa định, ngoại bang dòm ngó, hắn cần Trấn Bắc quân để giữ biên cương, cần ta — hoàng hậu — để giữ hậu cung yên ổn, quản việc nội đình.
Nay triều cục đã vững, ngoại địch đã yếu, phụ thân ta dĩ nhiên trở thành gánh nặng, còn ta — người chiếm chỗ trong lòng hắn, lại là cái gai không nhổ chẳng yên.
Phủ Trấn Bắc tướng quân tồn tại với hắn mà nói, chính là dấu tích của quá khứ yếu hèn — thời hắn phải nhún mình, phải nhờ người khác nâng đỡ mới có được ngai vàng hôm nay.
Thế nên, mẫu thân ta bệnh chết, nhị thúc cả nhà bị sơn tặc sát hại, huynh trưởng tử trận sa trường, con ta cùng cháu rơi sông mất xác, đại tẩu bị người hãm hại, còn ta — bị trúng độc trong chính chiếc vòng hắn từng tặng.
Chờ đến khi phụ thân chết đi, chỉ còn lại một đệ đệ thứ không tài cán, cùng đứa cháu nhỏ chưa hiểu sự đời, sao có thể gánh nổi ba mươi vạn binh mã Trấn Bắc?
Tiêu Bách quả thật tính toán sâu xa.
Chỉ là hắn chẳng biết — ta chưa từng là người hiền lành.
Những lời đồn do hắn và quý phi sai người tung ra, lại vô tình giúp ta che giấu bản tính thật.
Độc nhất lòng nữ nhân — đó mới là bản tâm ta.
Bệnh ta càng ngày càng nặng, vài ngày đã chẳng thể ngồi dậy, thái y viện đều bó tay, lời nói ra cũng phải uyển chuyển dè chừng.
Tiêu Bách lo lắng đến cuống quýt, bỏ cả triều chính, ngày đêm túc trực trong tẩm cung ta.
Hắn muốn tận mắt nhìn ta chết, tốt nhất là trước khi ta trút hơi, lại khiến ta chịu sỉ nhục thêm lần nữa, để thay cho người hắn yêu, hả cơn hận trong lòng.
Ta cùng hắn kết tóc đã hơn mười năm, sớm rõ hắn là người thế nào.
Hắn trọng danh tiếng hơn cả tính mạng, dù hận ta đến tột cùng, cũng chẳng dám để người đời chê cười, cho rằng hắn là kẻ bội nghĩa phụ thê.
Những ngày bệnh tật không quá khổ sở.
Thuốc của Cốc thần y quả nhiên khác thường, uống vào rồi ta chỉ mãi mê chìm trong giấc ngủ, thân thể dần gầy yếu, thần trí mờ dần.
Lúc hiếm hoi được tỉnh, mở mắt ra đã thấy Tiêu Bách ngồi bên giường, đôi mắt hoe đỏ, tay run run vuốt gương mặt tiều tụy của ta, giọt lệ nối nhau rơi xuống mu bàn tay lạnh buốt.
“Dung Dung, hoa đào trong ngự hoa viên sắp nở rồi, đến lúc đó cùng trẫm đi xem nhé?”
Ta đưa tay chạm lên mặt hắn, chậm rãi lần theo từng nét mày mắt, khẽ đáp:
“Được.”
Chính dáng vẻ thâm tình ấy, đã lừa ta hết lần này đến lần khác, khiến ta hết lần này đến lần khác, nuôi thêm một niềm hy vọng hão huyền.
Năm ta vừa tròn cập kê, tiết xuân ấm áp, cảnh vật trong trẻo.
Hắn đứng dưới tán đào nở rộ, dáng vẻ tuấn nhã, phong thần như ngọc, dung nhan thanh tú, môi đỏ tựa son, khí lạnh như sương.
Cánh hoa đào rơi xuống tóc hắn, khẽ điểm thêm vài phần ý tứ phiêu dật.
Hắn cười, nụ cười ôn nhu như nước, trong mắt tựa chứa đầy tinh quang, đưa tay về phía ta mà nói:
“Dung Dung, hoa nở rồi.”
4
Ngày mồng sáu tháng hai, là một ngày tốt, hợp cho việc hôn nhân.
Lăng Xuân khoác lên người bộ giá y đỏ thắm, quỳ trước cửa Trường Định cung, dập đầu từ biệt ta.
Nàng tuổi trẻ hơn ta, mười lăm đã được phủ Tướng quân đưa vào cung, nay đã hai mươi tám.
Ta cầu xin Tiêu Bách thu nàng làm nghĩa muội, chỉ mong trước khi ta đi, còn có thể nhìn thấy nàng gả được người như ý.
Nàng ở trong cung chừng ấy năm, đây cũng là việc cuối cùng ta có thể làm cho nàng.
Đến giờ lành, ta đích thân phủ lên đầu nàng tấm khăn hỷ sắc đỏ, rồi tháo chiếc vòng vàng đôi rồng khảm bảo thạch nơi cổ tay, đeo cho nàng, khẽ nói:
“Bạch đầu giai lão, vĩnh kết đồng tâm.”
Nàng cúi đầu, lệ lăn dài nơi mi mắt, khẽ thưa:
“Xin nương nương bảo trọng.”
Ta cùng Cốc Hương đứng trước cung môn, dõi mắt nhìn theo kiệu hoa đưa nàng đi.
Một trăm sáu mươi sáu rương sính lễ, nối dài từ Trường Định cung cho đến An Phúc môn.
Cung nhân đi theo thành hàng dài, theo kiệu mà dần khuất bóng.
Ta như lại thấy cảnh tượng năm xưa — khi ta cùng Tiêu Bách thành thân, cũng là một hồi hồng trang rực rỡ, một trăm tám mươi tám rương sính lễ, song thân đỏ mắt tiễn ta từ phủ Trấn Bắc tướng quân về làm dâu phủ Túc Vương.
Vì hôn lễ của Lăng Xuân ta gắng gượng dự lễ, cả đường phải vịn lấy vai Cốc Hương mới không ngã.
Nhưng cuối cùng vẫn bị gió lùa, đêm ấy lên cơn sốt cao, đầu óc mê man.
Tiêu Bách chỉ đến xem một lát, rồi bị quý phi ở Vĩnh Xuân cung gọi đi.