Chương 4 - Lời Hứa Đằng Sau Lần Cuối
Tôi bỗng thấy ấm lòng. Nhìn người đàn ông đang ngủ say bên cạnh, tôi nhẹ nhàng cúi xuống, hôn lên trán anh một cái.
Trong những năm bị dư luận đẩy lên đầu sóng ngọn gió, tôi đã dần trở nên tê liệt.
Truyền thông săn tin như thú hoang, ánh mắt lạnh lùng của nhà họ Lương, từng chút từng chút đẩy tôi thành kẻ thù của cả thế giới.
Có lần bị báo chí vây kín, tôi bị đẩy ngã giữa đám đông.
Nhưng họ vẫn không buông tha.
Những chiếc máy ảnh, micro, và câu hỏi dồn dập như những mũi dao nhọn chĩa vào tôi:
“Cô Thẩm, cô thực sự là người giết thiên kim nhà họ Lương sao?”
“Em trai cô có thuê người giết người không? Cô có liên quan không?”
“Cuộc gặp đầu tiên giữa cô và thiếu gia Lương có phải là dàn dựng? Những năm quacô đã lợi dụng được bao nhiêu?”
“Nghe nói bố mẹ cô từng là tội phạm trốn truy nã ở đại lục, cô nghĩ gì về ảnh hưởng di truyền từ dòng máu đó?”
Tôi vừa bị đẩy qua đẩy lại, vừa yếu ớt phản bác: “Tôi không có… tôi thực sự không có…”
Nhưng đứng bên cạnh, Lương Hữu Dự chỉ lạnh lùng nhìn, cuối cùng cười nhạt:
“Tôi chỉ có thể khuyên mọi người, trước khi kết hôn nhất định phải điều tra kỹ lýlịch đối phương. Nếu không, có thể sẽ trở thành người như tôi.”
Nhìn bóng lưng anh quay đi, tôi nghẹn ngào không thốt nên lời.
Kể từ hôm đó, tôi phát hiện mình bị mất tiếng.
Tôi không thể nói với bất kỳ ai thêm lời nào nữa.
Cho đến khi, tôi gặp được Tạ Hứa Bạch.
7
Hôm đó là ngày tôi theo thường lệ đến cô nhi viện làm tình nguyện.
Từ sau khi mất đi đứa con chưa kịp chào đời, tôi gần như mất ngủ mỗi đêm.
Không thể nhớ rõ đã bao nhiêu đêm tôi cứ mở mắt cho đến sáng.
Tôi tự nhốt mình trong phòng, dằn vặt bản thân hết lần này đến lần khác.
Nếu như ngày đó tôi không cùng Lương Ngọc đi mua quà thì sao? Nếu như tôi kịp thời ngăn cản đứa em trai chơi bời hư hỏng thì sao? Nếu như tôi chưa từng gặp Lương Hữu Dự thì sao?
Nếu chưa từng nhìn thấy mùa xuân thì có lẽ tôi đã đủ sức chịu đựng suốt mùa đông dài lạnh giá.
Thế nhưng, trên đời này có quá nhiều chuyện… không thể làm lại từ đầu.
Cho đến khi vì mất ngủ mà ngã bệnh, tôi mới bước ra khỏi căn phòng mà mình đã tự giam cầm suốt bấy lâu.
Tôi cũng chẳng biết mình muốn đi đâu, chỉ đơn giản men theo con đường nhỏ trước cửa nhà, đi mãi đến cuối con đường.
Nơi đó có một mái ấm cho trẻ mồ côi.
Viện trưởng – một người phụ nữ hiền hậu từng thấy đủ những gương mặt mất phương hướng – đã nhiệt tình mời tôi ở lại ăn cơm cùng.
Những đứa trẻ nhỏ xíu xung quanh ríu rít bu quanh tôi, hỏi han đủ thứ chuyện trên trời dưới đất.
Tôi ở lại chơi cùng tụi nhỏ đến rất khuya. Khi về nhà, cảm giác buồn ngủ hiếm hoi ập đến, khiến tôi gần như muốn bật khóc.
Từ hôm đó, tôi chính thức trở thành tình nguyện viên của mái ấm.
Lũ trẻ ở đó đều rất yêu quý tôi – trừ một bé gái tên là Tiểu Quyên.
Ngay từ ngày đầu tôi đến, con bé đã tỏ ra kháng cự và không thích tôi.
Thỉnh thoảng lúc tôi làm việc, nó sẽ cố tình đến gây rối: khi thì làm loạn căn phòng tôi vừa dọn, khi thì cố ý hắt nước bẩn lên váy tôi.
Nó dường như rất ghét tôi, nhưng lần nào cũng cố chấp xuất hiện trước mặt tôi.
Cho đến khi tôi mất tiếng.
Hôm ấy, nó hiếm khi ngoan ngoãn, giúp tôi dọn dẹp phòng, rồi ngượng nghịu đưa tôi chiếc bánh dứa mà nó thích nhất.
Tôi lặng lẽ nhận lấy, nhưng chẳng thể nói được lời cảm ơn.
Nó nhìn vẻ im lặng của tôi, vẻ mặt chợt trở nên buồn bã.
Rồi bật khóc, kể rằng thật ra nó rất thích tôi – vì tôi rất giống mẹ nó.
Nhưng mẹ nó đã bỏ lại nó khi mới ba tuổi để đi chăm đứa em trai nhỏ hơn.
Nó bảo, nó rất yêu mẹ, nhưng cũng có chút giận mẹ.
Rồi nó hỏi tôi: “Có phải… vì con dính lấy mẹ quá nên mẹ mới không cần con nữa không?
Thật ra con chỉ cần một chút xíu yêu thương thôi mà, một chút bằng ngón út cũng được, con sẽ không giành với em đâu.” “Thế sao mẹ vẫn không cần con?”
Tôi không biết phải trả lời thế nào, chỉ có thể ôm chặt lấy nó.
Viện trưởng nói với con bé rằng tôi không phải không thích nó, chỉ là tôi… không còn nói chuyện được nữa.Tiểu Quyên vừa khóc vừa nghĩ ngợi thật lâu, rồi nói rằng nó có cách cứu tôi.
Con bé kể rằng trước đó từng gặp một anh trai rất tốt bụng tên là Xero.
Tôi vừa khóc vừa cười, bảo nó: “Ultraman chỉ biết diệt quái vật, chứ không chữa được bệnh đâu.”
Con bé chớp chớp mắt, rất kiên quyết nói: “Nhưng anh Xero này thì khác. Anh ấy bảo với con là anh ấy có thể làm được mọi thứ, còn hứa sẽ thực hiện một điều ước cho con. Giờ con muốn tặng điều ước đó cho chị.”
Ngày hôm sau, Tiểu Quyên dắt một người tên Xero – chính là Tạ Hứa Bạch – đến trước mặt tôi.
Anh cúi xuống, hỏi nó: “Em chắc chắn muốn tặng điều ước của mình đi sao?”
Tiểu Quyên gật đầu.
“Nhưng nếu tặng đi rồi thì sẽ không còn nữa đâu, em không tiếc à?”
Tiểu Quyên nghĩ một lát, rồi nói:
“Không sao. Vì chị ấy là một người rất tốt. Chị không giống mẹ con. Chị ấy rất yêu con,
mặc dù con nghịch ngợm như vậy, nhưng chị vẫn cho con rất nhiều, rất nhiều yêu thương.”
Tạ Hứa Bạch gật đầu, cực kỳ nghiêm túc nói: “Một người chị tốt như vậy, đúng là xứng đáng với điều ước đó.”
Nhưng tôi không ngờ — Tạ Hứa Bạch căn bản chẳng chữa được bệnh, chỉ giỏi… phá đám.
Trước khi gặp anh, tôi chưa bao giờ biết… im lặng cũng là một loại đức hạnh.
Anh thường bất ngờ xuất hiện khi tôi đang ăn, vừa cười toe toét vừa tráo khay cơm đơn điệu của tôi, rồi như chẳng có chuyện gì, đưa lại cho tôi một hộp cơm trưa đầy đủ dinh dưỡng, màu sắc bắt mắt.
Tôi trừng mắt nhìn anh.
Anh vẫn cười, như thể vô tội: “Anh cũng đâu biết em không thích ăn món nào đâu? Em có nói với anh đâu!”
Tôi tức đến phát điên, lập tức điên cuồng gõ chữ trên điện thoại đưa cho anh xem.
Anh ấy che mắt lại, giả bộ kêu lên: “Ôi trời, anh là người mù chữ mà.”
Thế nhưng cái người “mù chữ” này lại gõ chữ rất nhanh, ứng dụng nhắn tin từng bỏ trống của tôi giờ ngập tràn tin nhắn của anh ấy.
“Hôm nay mây trên trời giống y như kem lốc xoáy McFlurry luôn, đỉnh cực!”
“Trời ơi! Hôm nay anh gặp một con mèo béo ú! To cỡ… một cái nhà!”
“Xạo ghê, làm gì có con mèo nào to bằng cái nhà chứ?”
“Có mà, đợi anh gửi ảnh cho em xem!”
Tôi nhìn bức ảnh Totoro trong phim Ghibli mà anh ấy gửi đến… chỉ biết cạn lời.
8
Cuộc sống cứ thế lặng lẽ trôi đi.
Tạ Hứa Bạch vẫn thường xuyên tráo hộp cơm của tôi, và ngày nào cũng nhắn cho tôi cả loạt tin nhắn dài dằng dặc.
Anh ấy âm thầm mua cho Tiểu Quyên những món đồ chơi và búp bê mà con bé luôn mơ ước, còn thì thầm với con bé:
“Anh Xero vẫn còn nhiều điều ước nữa để dành cho em đấy.”
Tiểu Quyên tò mò hỏi: Tại sao lại nhiều vậy ạ?”
Tạ Hứa Bạch xoa đầu con bé: “Vì em đã cứu được một người chị gái rất tuyệt vời. Đây là phần thưởng cho một đứa trẻ ngoan và tốt bụng.”
Lại một lần nữa bị Tạ Hứa Bạch đổi hộp cơm trưa, tôi tức giận nói to:
“Tạ Hứa Bạch, tôi ghét ăn cà chua!”
Vừa dứt lời, tôi thấy Tiểu Quyên và viện trưởng đều sững sờ nhìn tôi.
Tạ Hứa Bạch thì bình thản đáp: “Ghi nhớ rồi. Thẩm Yên không thích ăn cà chua.”
Viện trưởng mừng rỡ đến phát khóc: “Yên Yên, con nói được rồi! Tốt quá rồi!”
Tôi ngơ ngác, đưa tay chạm lên cổ họng mình, thử nói thêm một câu nữa.
Tiểu Quyên reo lên: “Anh Xero đúng là làm được mọi điều thật!”
Ánh mắt Tạ Hứa Bạch sáng rực, anh ấy nở một nụ cười dịu dàng.
Từ ngày hôm đó, hộp cơm trưa của tôi không bao giờ có cà chua nữa.
Tiểu Quyên cười tủm tỉm hỏi Tạ Hứa Bạch:
“Anh Xero ơi, anh chữa khỏi cho chị rồi, vậy hai người đã là bạn bè chưa?”