Chương 1 - Lời Hứa Bị Quên Lãng

Ta tuy là nữ tử xấu xí câm lặng, lại may mắn được gả cho một phu quân dung mạo tựa tiên nhân.

Phu quân thân thể suy nhược, mắc bệnh tâm tật, phải nhờ ta sớm tối lao lực, thức khuya dậy sớm bán hoành thánh tích góp bạc tiền, mới đủ sức chạy chữa.

Chàng từng cùng ta thề non hẹn biển, nguyện rằng trái tim Tạ Dao chàng đời này kiếp này chỉ thuộc về một mình ta—A Mãn.

Về sau, tâm bệnh của phu quân bình phục, chàng phong quang trở thành thiếu tướng quân. Liền sau đó, chàng lập tức giáng ta xuống làm thiếp thất, cưới ngay biểu muội nơi phủ Hầu gia làm chính thê.

Chàng ôm biểu muội trong lòng, ánh mắt ôn nhu vô hạn, thâm tình nói rằng:

“A Mãn bất quá chỉ là nữ tử nghèo hèn lại câm lặng, đâu thể sánh cùng nàng tài mạo song toàn, văn võ kiêm bị, khẩu xảo linh hoạt. Một nữ tử như vậy, há có thể làm thiếu tướng quân phu nhân sao?”

Nhưng chàng nào biết…

Ta vốn chẳng phải trời sinh câm mặc, chỉ là mệnh phạm thiên sát cô tinh, hễ mở miệng ắt thành lời nguyền, khắc tận mạng người.

Ta vì muốn bảo hộ chàng bình an vô sự, suốt bao năm qua đành phải cắn răng giả làm kẻ câm, im lặng chẳng hé nửa lời.

Nay chàng đã vô tình bạc nghĩa đến thế, vậy ta còn giả bộ làm chi nữa!

1

Phu quân nói muốn vì ta tổ chức một lễ thành thân thật long trọng, đường đường chính chính rước ta vào cửa.

Mặc dù năm ấy ở thôn Đào Hoa, ta và Tạ Dao đã từng bái thiên địa, danh chính ngôn thuận là thê tử của chàng.

Nhưng tướng quân phủ xưa nay coi trọng lễ nghi, nói như thế là bất hợp quy củ. Cần phải nạp cát hành đủ lục lễ, long trọng bái đường, bày yến tiệc linh đình, chiêu đãi quan khách bốn phương mới đúng lễ nghĩa.

Ta nghe vậy, lòng mừng khôn xiết, tự nhiên là vui vẻ gật đầu ưng thuận.

Đèn lồng đỏ rực treo cao, tướng quân phủ tân khách chật nhà, náo nhiệt vô cùng.

Ta mong ngóng từng khắc, đợi đến giờ lành sẽ ra tiền thính bái đường.

Trên người ta lúc này là bộ giá y màu phi hồng rực rỡ, chính do phu quân tự tay lựa chọn.

Tơ lụa trơn bóng, mềm mại tựa nước chảy, thật là cả đời ta lần đầu tiên mới được khoác lên mình.

Đám nha hoàn ai nấy đều vui vẻ, nối nhau tới trước mặt ta chúc mừng:

“A Mãn cô nương cuối cùng cũng được như ý nguyện rồi!”

Chỉ sợ ta không hiểu, các nàng ấy còn ra sức dùng thủ ngữ khoa tay nhắc lại lần nữa.

Từ ngày ta vào phủ, phu quân đã ra lệnh cho hạ nhân trong phủ đều phải học thủ ngữ, tránh để ta—một nữ tử câm lặng—chịu tủi thân.

Nghe các nàng trêu ghẹo, ta ngượng ngùng chẳng biết giấu mặt đi đâu, chỉ đành theo quy củ ma ma dạy, cầm lấy một nắm hạt dưa bằng vàng phát thưởng cho từng người.

Giữa trưa hè mặt trời gay gắt, ta đứng cạnh cửa sổ chờ đợi, đợi mãi đến mức lim dim buồn ngủ, chợt nghe ngoài kia vang vọng thanh âm của vị tân lang quan vang như chuông ngân:

“Nhất bái thiên địa, nhị bái cao đường, phu thê giao bái…”

Ta giật mình tỉnh lại, hốt hoảng nhận ra suýt nữa đã bỏ lỡ mất giờ lành!

Vội vã nhấc váy chạy ra ngoài, hoàn toàn không màng tới tiếng gọi gấp gáp của nha hoàn phía sau.

Giữa tiền thính đông đúc khách khứa, phu quân Tạ Dao một thân hỉ bào đỏ thẫm, ánh mắt trong sáng, môi cười dịu dàng, đang chuẩn bị cùng người khác bái đường.

Nhìn thấy ta thất kinh lao vào, ánh mắt chàng đầy kinh ngạc, cất tiếng hỏi:

“A Mãn, nàng tới đây làm gì?”

Nha hoàn Thanh Đào hổn hển chạy tới kéo tay ta lại, thấp giọng khuyên can:

“Cô nương mau trở về đi, đừng quấy nhiễu thiếu tướng quân và phu nhân bái đường!”

Phu nhân ư?

Nữ tử đang cùng phu quân bái đường lúc này nhẹ nhàng xoay người lại, chẳng phải ai xa lạ, chính là biểu muội Tống Tích Vân ở phủ Hầu gia.

Ta mặt mày tái nhợt, hoảng hốt lùi bước về sau.

Nàng ta một thân giá y đỏ thẫm lộng lẫy chói mắt, khiến cho bộ y phục màu phi hồng trên người ta bỗng chốc trở nên ảm đạm, nhạt nhòa vô sắc. Nàng ta nhếch môi, thần sắc như cười như không:

“A Mãn cô nương chẳng lẽ cho rằng người mới là chính thê của phu quân hay sao?”

Tiếng nàng vừa dứt, cả sảnh đường lập tức phá lên cười, ánh mắt quan khách nhìn ta vừa khinh thường vừa thương hại.

Ta chẳng qua chỉ là một thôn nữ quê mùa, nào đâu biết rõ quy củ nhà giàu—

nữ tử mặc giá y màu phi hồng…

thì chính là thiếp thất!

2.

Bóng nến chập chờn trên hỉ án, phản chiếu thân ảnh quạnh quẽ cô đơn của ta nơi cửa sổ phía tây, nước mắt lặng lẽ như sương rơi.

Long phượng hoa chúc vốn tượng trưng phu thê trăm năm hảo hợp, thiếp thất vốn không xứng dùng vật này.

Thanh Đào nói, đây là do thiếu tướng quân thương xót ta, đặc biệt cho phép phòng ta cũng được thắp lên một đôi.

Mưa gió bên phòng chính vẫn không ngừng nghỉ, mãi tới nửa đêm về sáng mới yên lặng trở lại.

Tạ Dao khoác áo ngủ, đạp ánh trăng mà tới, nắm lấy tay ta nhẹ giọng:

“Tay lạnh thế này, sao nàng còn chưa đi ngủ?”

Ta khẽ giật tay ra, tránh né ánh mắt của chàng.

Tạ Dao tự biết mình đuối lý, thần sắc lúng túng, bèn nói:

“Hôm nay nàng làm loạn lễ bái đường, khiến phủ tướng quân mất hết mặt mũi, vi phu chưa từng trách cứ nàng nửa lời, còn dặn dò nha hoàn chiếu cố nàng thật tốt.”

“A Mãn, nàng vốn luôn nhu thuận hiểu chuyện, sao giờ lại ngang ngược thế này?”

“Hay là nàng muốn cùng vi phu xa cách, sinh lòng ngăn trở?”

Trong mắt chàng, hóa ra chẳng phải chàng bội bạc ta trước, mà lại trách ta ngang ngạnh?

Ta ngước mắt nhìn chàng, chợt nhớ lại ban ngày khách khứa đầy sảnh đường xì xào to nhỏ:

“Cái cô gái quê mùa vừa câm vừa xấu kia, dám vọng tưởng làm chính thê thiếu tướng quân, với dung mạo và xuất thân ấy, làm thiếp cũng đã là đại ân rồi.”

“Dù có là ân nhân cứu mạng, cũng chẳng nên mặt dày dựa vào ân tình mà cưỡng cầu. Tạ gia là danh môn vọng tộc, thiếu tướng quân lại là trọng thần trong triều, bị mật thám quân Đông Di tập kích trọng thương ở tâm mạch, phải mai danh ẩn tích hai năm. Nàng ta chữa khỏi tâm bệnh cho tướng quân, chẳng qua nhặt được một công lớn từ trên trời rơi xuống, âu cũng là ban thưởng hậu hĩnh.”

“Tiểu tiện tỳ lại được nước lấn tới, không biết trời cao đất dày, há có thể so với thiên kim phủ Hầu gia? Người ta từ nhỏ đã cùng thiếu tướng quân có hôn ước, văn võ toàn tài, nữ trung hào kiệt, mới xứng đôi vừa lứa với thiếu tướng quân.”

“Thiếu tướng quân thực là nhân từ, phải ta ấy à, chỉ cần thưởng ít bạc trắng, vài mẫu đất rồi đuổi về quê, cớ gì giữ lại cho thêm phiền!”

Ta lúc này mới rõ, trong mắt những kẻ quyền quý chốn kinh thành, hôn lễ năm ấy giữa ta và Tạ Dao ở thôn Đào Hoa chẳng qua chỉ là trò trẻ con, chẳng đáng coi trọng.

Chắc hẳn trong lòng Tạ Dao cũng nghĩ như vậy?

Cho ta làm thiếp, đã là vinh hạnh, là ban ân rồi!

Sớm biết vào thành lại chịu nhục nhã thế này, ta đã chẳng rời thôn Đào Hoa, ở lại bán hoành thánh qua ngày còn hơn.

Nhưng rõ ràng lúc trước người một mực đòi cưới ta về cửa, chẳng phải chính là Tạ Dao đó sao?

3

Lúc đầu, khi phủ tướng quân phái người tới rước Tạ Dao, thiết kỵ đen nghịt như mây kín cả đầu thôn Đào Hoa, khí thế lớn vô cùng.

“A Mãn cuối cùng cũng thoát khổ rồi, tương lai được hưởng vinh hoa phú quý, từ nay đổi đời!”

Cửa thôn chen chúc người xem náo nhiệt. Ai nấy đều tò mò muốn biết, nữ tử nào mà thiếu tướng quân lại để tâm yêu chiều đến mức này?

Dung mạo ta vốn xấu xí, bên má trái từ khi lọt lòng đã có một vết sẹo thô to, như con rết bò dài từ chân mày xuống tận cằm, khiến người nhìn vào đều khiếp sợ tránh xa.

Ánh mắt người đời nóng bỏng như lửa, thiêu cháy cả da mặt ta.

Trước khi rời đi, ta lấy hết dũng khí hỏi Tạ Dao:

“Lời chàng từng hứa lúc trước, bây giờ còn tính hay không?”

Chẳng cần suy nghĩ cũng biết, tướng quân phủ là chốn giàu sang, ta tới đó chắc chắn sung sướng an nhàn cả đời.

Nhưng ta cũng biết rõ phận mình thấp hèn, nếu chàng không muốn nhận người vợ nghèo như ta, ta vẫn có thể ở lại thôn Đào Hoa bán hoành thánh cả đời.

Chàng ôn nhu đáp lại:

“Đương nhiên là còn tính. A Mãn thiện tâm, dung mạo tự nhiên xinh đẹp, nàng là thê tử duy nhất đời này của ta, cả đời ta quyết chẳng phụ nàng.”

Lời nói khi ấy chân thành xiết bao, khiến ta xiêu lòng.

Ngày ấy, quân phủ tìm về chàng, chẳng ai ngờ được thiếu tướng quân mất tích hai năm trời lại được một cô gái quê mùa vừa câm vừa xấu như ta nhặt về nuôi dưỡng.

Năm ấy xuân về, ta nhặt được chàng ngoài thôn, thân thể đầy máu, hơi thở mong manh.

Người làng thấy thế đều nói sống không nổi, nhưng ta lại không tin mệnh số.

Mang về nhà lau rửa sạch sẽ, lại rửa ra một mỹ nam mặt tựa mỹ ngọc, như tuyết trắng đỉnh núi, đẹp đến câu hồn đoạt phách.

Ta dốc sạch cả nhà tích góp, cũng chỉ vừa vặn mua nổi một rễ sâm nhỏ, giúp chàng giữ mạng qua ngày.

Chàng dung mạo yêu nghiệt, mà lại yếu ớt chẳng dùng được vào việc gì, mỗi tháng còn tốn mất mười lượng bạc thuốc thang, ta từng ám chỉ chàng nên sớm rời đi.

Nhưng chàng lại quấn quýt chẳng đi, còn tự nguyện gả cho ta để báo ân cứu mạng.

Ta xấu xí, trên mặt lại mang vết sẹo ghê người, trước nay chẳng ai muốn cưới ta. Nay bỗng dưng từ trên trời rơi xuống một phu quân đẹp tựa tiên nhân, dù biết rõ đây là cái bẫy hao tiền tốn của, ta vẫn không nỡ đuổi đi lần thứ hai.

Thời gian dần trôi, ta vì chàng bán mạng kiếm tiền chữa bệnh, bốn mùa lao lực, cuối cùng cũng chữa khỏi căn bệnh tim dai dẳng kia.

Chàng vừa khỏi bệnh chưa đầy hai tháng, ta liền lập tức bị giáng xuống làm thiếp thất, chịu cảnh thất sủng?

Lời hứa “cả đời chẳng lìa xa” khi xưa, chàng đã quên sạch sẽ rồi sao?

Lệ tuôn rơi như sương rơi bên cửa sổ, dưới ánh nến hoa đăng lay lắt, soi bóng ta cô quạnh trong gian phòng lạnh vắng này.