Chương 1 - Khúc Sông Làng - Đò Tống Xác
Giờ Hợi ngày hôm ấy, trên con đường mòn dẫn xuống bãi sông, có hai bóng người thấp bé đang dò dẫm đi xuống. Độ này đang là thời gian nước lớn, thành ra bãi nổi nằm giữa sông đã chìm trong một bức màn dập dềnh sóng nước. Con trăng trên cao không hắt ánh sáng màu sữa đục, bao trùm xuống khung cảnh làng quê quạnh quẽ. Khúc sông giờ này đã tương đối vắng người. Gió từ bãi đồng mả se sắt thổi về từng cơn, đem theo mùi nhang trầm ngan ngát của một gia đình đi bốc mộ đêm. Tiếng rặng lau già bên bờ sông xào xạc từng cơn, hoà cùng tiếng ếch nhái nghe nôn nao đến ma mị.
Hai bóng người thấp bé ấy là thằng Đạt và thằng Quỳnh, con hai hộ gia đình bần nông trong làng Mương Chài. Đạt năm nay mười bốn, gầy như que củi, tóc mọc lưa thưa, cặp con ngươi như lồi ra khỏi tròng, minh chứng cho việc đói ăn như đại đa số dân trong làng này. Quỳnh kém Đạt một tuổi, người ngợm cũng xơ xác, thấp hơn hẳn một cái đầu. Trong làng này, hai thằng chơi với nhau rất thân, đi đâu làm gì cũng như hình với bóng. Như thông lệ hàng đêm, hễ trời đổ về gần nửa khuya, hai thằng này thường xuống mé sông thăm bẫy cá. Gặp vụ nước lớn thế này còn cắm được mấy chục cái cần câu Lươn. Phải nói hai thằng này có số sát, đêm nào đi về hai cái giỏ tre cũng lưng lửng cá tôm. Cũng coi như phụ giúp cho gia đình được cân dầu, đấu gạo.
Ra đến bờ sông, hai thằng thạo việc bắt đầu thoăn thoắt làm. Gió đêm mang theo cái lạnh mát làm hai thằng chọi cảm thấy rất khoan khoái. Đang thăm mấy chục cần câu Lươn, hai thằng chợt giật mình khi thấy một cảnh tượng tương đối kỳ quái. Từ giữa dòng sông đang dập dềnh sóng nước, một chiếc thuyền giấy lờ lững trôi rất chậm. Xét theo hướng ấy có lẽ chiếc thuyền này xuôi dòng từ mạn làng Luỹ, nằm nơi đầu nguồn. Chiếc thuyền làm bằng giấy dầu, to như một cái thuyền nan, có mái che đàng hoàng. Mới thấy chiếc thuyền kỳ lạ này, Đạt đã đứng khựng lại. Sau mấy giây căng mắt nhìn, Đạt hạ cái cần câu Lươn xuống, trỏ tay nói nhỏ:
— Ê Quỳnh… Quỳnh… mày xem kìa, là thuyền tống xác đấy.
Khỏi phải nói thằng Quỳnh cũng thừa biết cái thuyền này là thuyền Tống Xác. Trẻ con trong làng như hai thằng nó chẳng ai còn lạ gì việc này. Dân trong vùng có một tập tục bất thành văn, hễ gia đình nào có vận xui điềm rủi vào nhà, nếu muốn gạt bỏ hết thì sẽ thỉnh thầy cúng về nhà. Thầy cúng sẽ làm một cái thuyền giấy, đem lễ vật bày lên trên. Sau đó ghi hết bát tự sinh thần của gia chủ đem dán vào mũi thuyền. Và sau khi cúng kiếng xong sẽ đem ra sông thả để giải hạn cho gia chủ. Theo những gì mà đám người lớn trong làng kể, và sau mấy lần được tận mắt chứng kiến, hai thằng này cũng biết trên thuyền có rất nhiều thức ăn.
Nào là oản chuối, bánh kẹo, khoai luộc… nhà nào sang còn cúng cả cặp gà giò, có khi là cái thủ lợn… đó là cách người vùng này cúng xả xui. Vậy thì chiếc thuyền Tống Xác kia nhất định phải có nhiều đồ ăn lắm. Thằng Quỳnh đã khẳng định chắc nịch khi thoạt thấy chiếc thuyền lướt gần tới khúc sông này. Ngặt nỗi con thuyền cách xa bờ quá, dù muốn dù không thằng Quỳnh cũng đành bất lực nhìn đống thức ăn trôi qua mặt mình. Trong thoáng giây nào đó, thằng Quỳnh chợt chụm tay lên miệng, giả bộ gọi to:
— Này… rẽ vào đây xem có gì ăn không. Nàyyyyyyy…
Trẻ con làng quê dạo ấy đói lắm. Chỉ có lũ con cái của đám bá hộ mới no thân ấm cật, còn với những đứa trẻ sinh ra trong gia đình bần nông thì miếng ăn luôn là một thứ gì đó thèm khát. Nói đâu xa đã một tuần trăng, hai thằng này đều chỉ ăn sắn luộc. Ước mơ ăn một bữa kễnh bụng thịt thà cá mú luôn là điều hai thằng chấp niệm. Quay trở lại cảnh tượng ấy, những tưởng câu gọi vu vơ chỉ là một thứ an ủi cho hy vọng có được đồ ăn trên con thuyền, vậy mà lạ thay, ngay sau tiếng gọi bông đùa ấy, con thuyền Tống Xác bỗng đứng khựng lại.
Con thuyền ban nãy còn lững lờ trôi theo dòng, nay lại chầm chậm quay đầu và lừ đừ tiến tới chỗ hai thằng trước con mắt ngơ ngác của chúng. Mất đúng mười nhịp thở, con thuyền đã cách nơi chúng nó đứng độ một trượng. Mới thấy cảnh này, thằng Đạt đã đâm ra hoang mang. Nó giật tay thằng Quỳnh rồi bảo:
— Này… sao con thuyền tự dưng trôi vào đây nhỉ? Cứ như có ma khiển ấy.
Mặc kệ lời cảnh báo của bạn mình, thằng Quỳnh bày ra nét mặt háo hức. Nó nuốt nước miếng đánh ực rồi bảo:
— Ma hay quỷ gì cũng kệ, nhanh lên, soát xem bên trong có gì ăn không? Tao đói mờ mắt rồi.
Hai bóng người thấp bé ấy là thằng Đạt và thằng Quỳnh, con hai hộ gia đình bần nông trong làng Mương Chài. Đạt năm nay mười bốn, gầy như que củi, tóc mọc lưa thưa, cặp con ngươi như lồi ra khỏi tròng, minh chứng cho việc đói ăn như đại đa số dân trong làng này. Quỳnh kém Đạt một tuổi, người ngợm cũng xơ xác, thấp hơn hẳn một cái đầu. Trong làng này, hai thằng chơi với nhau rất thân, đi đâu làm gì cũng như hình với bóng. Như thông lệ hàng đêm, hễ trời đổ về gần nửa khuya, hai thằng này thường xuống mé sông thăm bẫy cá. Gặp vụ nước lớn thế này còn cắm được mấy chục cái cần câu Lươn. Phải nói hai thằng này có số sát, đêm nào đi về hai cái giỏ tre cũng lưng lửng cá tôm. Cũng coi như phụ giúp cho gia đình được cân dầu, đấu gạo.
Ra đến bờ sông, hai thằng thạo việc bắt đầu thoăn thoắt làm. Gió đêm mang theo cái lạnh mát làm hai thằng chọi cảm thấy rất khoan khoái. Đang thăm mấy chục cần câu Lươn, hai thằng chợt giật mình khi thấy một cảnh tượng tương đối kỳ quái. Từ giữa dòng sông đang dập dềnh sóng nước, một chiếc thuyền giấy lờ lững trôi rất chậm. Xét theo hướng ấy có lẽ chiếc thuyền này xuôi dòng từ mạn làng Luỹ, nằm nơi đầu nguồn. Chiếc thuyền làm bằng giấy dầu, to như một cái thuyền nan, có mái che đàng hoàng. Mới thấy chiếc thuyền kỳ lạ này, Đạt đã đứng khựng lại. Sau mấy giây căng mắt nhìn, Đạt hạ cái cần câu Lươn xuống, trỏ tay nói nhỏ:
— Ê Quỳnh… Quỳnh… mày xem kìa, là thuyền tống xác đấy.
Khỏi phải nói thằng Quỳnh cũng thừa biết cái thuyền này là thuyền Tống Xác. Trẻ con trong làng như hai thằng nó chẳng ai còn lạ gì việc này. Dân trong vùng có một tập tục bất thành văn, hễ gia đình nào có vận xui điềm rủi vào nhà, nếu muốn gạt bỏ hết thì sẽ thỉnh thầy cúng về nhà. Thầy cúng sẽ làm một cái thuyền giấy, đem lễ vật bày lên trên. Sau đó ghi hết bát tự sinh thần của gia chủ đem dán vào mũi thuyền. Và sau khi cúng kiếng xong sẽ đem ra sông thả để giải hạn cho gia chủ. Theo những gì mà đám người lớn trong làng kể, và sau mấy lần được tận mắt chứng kiến, hai thằng này cũng biết trên thuyền có rất nhiều thức ăn.
Nào là oản chuối, bánh kẹo, khoai luộc… nhà nào sang còn cúng cả cặp gà giò, có khi là cái thủ lợn… đó là cách người vùng này cúng xả xui. Vậy thì chiếc thuyền Tống Xác kia nhất định phải có nhiều đồ ăn lắm. Thằng Quỳnh đã khẳng định chắc nịch khi thoạt thấy chiếc thuyền lướt gần tới khúc sông này. Ngặt nỗi con thuyền cách xa bờ quá, dù muốn dù không thằng Quỳnh cũng đành bất lực nhìn đống thức ăn trôi qua mặt mình. Trong thoáng giây nào đó, thằng Quỳnh chợt chụm tay lên miệng, giả bộ gọi to:
— Này… rẽ vào đây xem có gì ăn không. Nàyyyyyyy…
Trẻ con làng quê dạo ấy đói lắm. Chỉ có lũ con cái của đám bá hộ mới no thân ấm cật, còn với những đứa trẻ sinh ra trong gia đình bần nông thì miếng ăn luôn là một thứ gì đó thèm khát. Nói đâu xa đã một tuần trăng, hai thằng này đều chỉ ăn sắn luộc. Ước mơ ăn một bữa kễnh bụng thịt thà cá mú luôn là điều hai thằng chấp niệm. Quay trở lại cảnh tượng ấy, những tưởng câu gọi vu vơ chỉ là một thứ an ủi cho hy vọng có được đồ ăn trên con thuyền, vậy mà lạ thay, ngay sau tiếng gọi bông đùa ấy, con thuyền Tống Xác bỗng đứng khựng lại.
Con thuyền ban nãy còn lững lờ trôi theo dòng, nay lại chầm chậm quay đầu và lừ đừ tiến tới chỗ hai thằng trước con mắt ngơ ngác của chúng. Mất đúng mười nhịp thở, con thuyền đã cách nơi chúng nó đứng độ một trượng. Mới thấy cảnh này, thằng Đạt đã đâm ra hoang mang. Nó giật tay thằng Quỳnh rồi bảo:
— Này… sao con thuyền tự dưng trôi vào đây nhỉ? Cứ như có ma khiển ấy.
Mặc kệ lời cảnh báo của bạn mình, thằng Quỳnh bày ra nét mặt háo hức. Nó nuốt nước miếng đánh ực rồi bảo:
— Ma hay quỷ gì cũng kệ, nhanh lên, soát xem bên trong có gì ăn không? Tao đói mờ mắt rồi.