Chương 7 - Câu Chuyện Của Những Mảnh Vỡ
32
Ta đang thay quần áo cho Hi nhi. Con bé ngọ nguậy không phối hợp, nhũ mẫu ở bên cạnh giúp một tay.
Bích Tỷ bước vào, ghé tai ta nói nhỏ vài câu. Động tác trên tay ta khựng lại. Nhũ mẫu nhận thấy có điều không ổn, ngẩng đầu nhìn ta.
Sắc hồng trên mặt ta tan biến sạch sành sanh, môi hé mở dường như định nói gì đó, bộ quần áo trên tay rơi tuột xuống đất.
Nhũ mẫu sợ hãi: “Phu nhân?”
Ta bỗng đẩy bà ra, lảo đảo bước ra ngoài, bước chân hư ảo, Bích Tỷ và San Hô vội vàng tiến lên nâng đỡ.
Ta gạt bọn họ ra, đi thẳng ra giữa viện đứng trơ ra, mắt mở thật lớn nhưng lại trống rỗng không tiêu điểm.
“Cảnh Chu, Cố Cảnh Chu.”
Ta lẩm bẩm gọi hai tiếng, giọng khản đặc không ra hơi. Sau đó thân hình chao đảo, ngã quỵ ra sau, nhắm nghiền mắt, bất tỉnh nhân sự.
Bích Tỷ và San Hô kinh hãi kêu lên đỡ lấy ta. Viện Lăng Ba nhất thời loạn thành một đoàn.
Người mời đại phu, người báo tin cho viện chính, người bấm nhân trung, nhốn nháo cả một vùng. Ta được khiêng về giường, đại phu nhanh chóng đến châm cứu đổ thuốc, bận rộn nửa ngày ta mới thong thả tỉnh lại.
Tỉnh lại rồi ta chẳng nói chẳng rằng, chỉ nhìn trân trân lên đỉnh màn, nước mắt không tiếng động tuôn rơi, nhanh chóng thấm ướt gối.
Nhất thời trong viện Lăng Ba vang tiếng khóc thương.
Đám hạ nhân cũng sụt sùi theo, đều nói Thế tử phu nhân và Thế tử gia tình thâm nghĩa trọng, nay gặp đại nạn này thật là đáng thương. Ta khóc hồi lâu cho đến khi kiệt sức rồi lại hôn mê ngủ thiếp đi.
Trong giấc ngủ vẫn còn nức nở, đôi mày nhíu chặt dường như đang chịu đựng nỗi thống khổ vô cùng.
33
Đợi đến khi tâm tình hơi nguôi ngoai, ta nén đau gượng dậy sang hầu hạ ở viện chính.
Mẹ cũng một bộ dạng bi thống, lúc tỉnh lúc ngủ, hễ tỉnh lại là rơi lệ, ăn uống không màng, nhanh chóng tiều tụy hẳn đi.
Cha ta qua thăm hai lần, thấy bà như vậy liền thở dài, dặn hạ nhân hầu hạ chu đáo, lại phái thêm người sang Tây Sơn tìm kiếm, sống phải thấy người, chết phải thấy xác.
Bên ngoài đám người tìm kiếm lại tìm thấy ở gần vách đá đó một chiếc ủng của Trần Nham và nửa ống tay áo rách mướp của Cố Cảnh Chu, trên đó dính những vết sẫm màu đáng nghi cùng dấu vết dã thú cắn xé.
Mọi dấu hiệu đều chỉ về kết quả rơi xuống vách đá thiệt mạng, thi cốt e đã bị dã thú nuốt chửng, khó mà tìm lại.
Ngày tin tức được xác nhận, cha ta đã đập vỡ chén trong thư phòng. Mẹ thì ngất lịm tại chỗ, sau khi được cứu tỉnh liền ôm lấy ta khóc rống lên, mắng Cố Cảnh Chu bất hiếu, mắng ông trời bất công.
Ta gục trong lòng mẹ, khóc đến run rẩy cả người, suýt nữa thì ngất lịm theo.
Hầu phủ treo cờ trắng, lập linh đường. Vì không tìm thấy thi thể nên chỉ có thể dùng y quan để nhập liệm.
Vì mẹ nằm liệt giường nên ta gượng dậy tiếp khách.
Tất cả thân bằng cố hữu đến phúng viếng thấy dáng vẻ của ta không ai là không xuýt xoa cảm thán, nói Thế tử phu nhân phủ Xương Nghị Hầu trọng tình trọng nghĩa, đau đớn khi mất chồng đến mức tiều tụy khô héo, thật là người có tình hiếm thấy.
Ngay cả những kẻ vốn có chút lời ra tiếng vào vì xuất thân của ta, thấy cảnh này cũng chỉ biết thở dài.
Trong linh đường hương khói nghi ngút, tro giấy bay bay. Ta quỳ trên bồ đoàn, nghe bên tai những tiếng khóc và lời an ủi thật thật giả giả, nhìn chiếc quan tài đen kịt kia.
Kịch, rốt cuộc phải diễn cho đủ bộ mới khiến người ta tin tưởng không nghi ngờ.
34
Tang sự của Cố Cảnh Chu lo liệu xong xuôi, Hầu phủ dường như vắng lặng đi rất nhiều. Cờ trắng hạ xuống, thay bằng những đồ trang trí thanh nhã, ngày tháng dường như quay lại nhịp độ cũ, nhưng rõ ràng đã khác trước.
Hạo nhi với danh nghĩa con trai độc nhất của Cố Cảnh Chu được lập làm Thế tử. Mấy đứa nhỏ còn nhỏ, mẹ cũng cần người chăm sóc, ta gắng gượng tinh thần để sống tiếp.
Mẹ đem quyền quản lý trong ngoài Hầu phủ giao hoàn toàn vào tay ta.
Thực ra những sổ sách quan trọng, sản nghiệp, nhân lực từ nhiều năm kinh doanh của bà và sự tiếp quản âm thầm của ta đã nằm chắc trong tay mẹ con ta từ lâu.
Nay chẳng qua là danh chính ngôn thuận đưa ra ngoài sáng mà thôi.
Cha ta từ sau cái chết của Cố Cảnh Chu cả người như bị rút mất tinh khí, nhanh chóng già nua và suy sụp.
Ông ta vốn ham mê hưởng lạc, ít khi hỏi han sự vụ trong phủ, nay càng thêm nản lòng thoái chí, thường một mình ở thư phòng nhìn di vật của Cố Cảnh Chu thẩn thờ, hoặc mượn rượu giải sầu.
Mẹ theo lễ nghĩa vẫn sắp xếp người hầu hạ chu đáo việc ăn ngủ của ông ta, nhưng cũng chỉ dừng lại ở đó.
Thỉnh thoảng ông ta qua thăm Hạo nhi, trong đôi mắt đục ngầu có chút ánh sáng le lói, nhưng nhanh chóng mờ đục đi.
Đối với đứa cháu trai duy nhất này, có lẽ ông ta đã gửi gắm chút tâm niệm cuối cùng.
35
Ngày tháng trôi nhanh như bóng câu qua khe cửa. Chuyện Cố Cảnh Chu tử nạn không còn là đề tài bàn tán nơi đầu đường xóm ngõ nữa.
Tấm biển phủ Xương Nghị Hầu vẫn treo cao, nhưng cảnh tượng bên trong đã âm thầm thay đổi.
Tại viện Thọ Vinh, mẹ cầm một quyển sổ cái, chỉ vào một chỗ nói với ta: “Hai cửa hàng tơ lụa phía Nam thành này, lợi nhuận năm nay tăng thêm ba phần so với năm ngoái. Tên chưởng quỹ đó là người thành thật, làm việc cũng siêng năng, cuối năm nên thưởng thêm bạc trắng.”
Ta ngồi phía dưới bà, nhận lấy sổ cái xem kỹ rồi gật đầu thưa: “Mẹ nói chí phải. Hôm trước hắn cũng có lời nhắn vào, nói mới có đợt hàng lụa Nhuyễn Yên và lụa Phù Quang từ Giang Nam chuyển tới, màu sắc rất chuẩn, con đã bảo hắn để lại mấy xấp tốt cho mẹ chọn hai xấp làm y phục, đám trẻ cũng cần may áo xuân rồi.”
Trên mặt mẹ lộ rõ nụ cười, xua xua tay: “Ta già rồi, mặc không nổi mấy màu nhạt thế đâu, cứ để lại cho đám trẻ là được.”
Nói vậy nhưng nếp nhăn nơi khóe mắt bà vì nụ cười mà giãn ra. Khí sắc bà rất tốt, mỗi sáng thức dậy đều tập một bộ Ngũ Cầm Hí, buổi trưa chợp mắt, xem sổ sách, trêu đùa cháu chắt, ngày tháng trôi qua thoải mái và sung túc.
Đám trẻ nay đã đến tuổi khai tâm, đã mời một lão tiên sinh nghiêm cẩn nhưng không kém phần khai minh về dạy học tại tây tịch trong nhà.
Sau giờ học, Hạo nhi luôn túc trực bên cạnh ta, hoặc đọc thuộc lòng thơ văn mới học cho ta nghe, hoặc cầm chiếc bút lông nhỏ viết từng nét từng nét trên giấy tuyên.
Đường nét khuôn mặt nó rất giống ta, tính tình trầm tĩnh hơn Cố Cảnh Chu nhiều, nhỏ tuổi đã biết tiến thoái, hiếu kính tổ mẫu và mẹ, thương yêu muội muội.
Hi nhi thì hiếu động hơn ca ca, tan học xong thích nhất là chiếc xích đu kia. Nhũ mẫu hoặc nha hoàn khẽ đẩy, nó liền phát ra tiếng cười giòn tan như chuông bạc, tà váy hồng tung bay trong không trung như một đóa hoa biết bay.
Nó rất thích nghe kể chuyện, mỗi đêm trước khi ngủ nhất định phải nhõng nhẽo đòi ta hoặc mẫu thân kể cho một đoạn mới chịu ngủ.
Trịnh thị đã trở thành trợ thủ đắc lực nhất bên cạnh ta, nàng tâm tư tỉ mỉ, biết chữ nghĩa, đặc biệt nhạy bén với sổ sách, nhiều việc vụn vặt giao cho nàng đều được lo liệu đâu ra đấy.
Nàng vẫn hằng ngày thỉnh thỉnh an sớm muộn, cung kính đứng chầu, giữa đôi mày chỉ còn sự an định.
Đệ đệ nàng học ở thư viện vài năm, tuy không có tài kinh thế nhưng thi đỗ tú tài, rồi chạy chọt làm một chức giáo thụ ở quan học cũng chẳng thành vấn đề, Trịnh thị vì thế cảm kích khôn cùng.
Linh Chi trông nom Oánh nhi, sống trong một viện tử thanh tĩnh rộng rãi, ngoài những lúc thỉnh an theo lệ thì rất ít khi đi lại bên ngoài, chỉ dồn hết tâm trí vào nữ nhi.
Oánh nhi sinh ra trắng trẻo đáng yêu, tính tình văn tĩnh, chẳng năng nổ bằng Hi nhi.
Ta giữ lời hứa bảo đảm mẹ con họ cơm áo không lo, phần lệ ưu đãi, cũng hứa đợi Oánh nhi lớn thêm chút sẽ mời nữ tiên sinh về dạy, hoặc để nó cùng học chữ chơi đùa với Hi nhi.
Linh Chi vì thế chỉ còn lòng cảm kích, chẳng còn tâm niệm nào khác.
Trong kinh ai nấy đều biết phủ Xương Nghị Hầu một nhà toàn cô quả, nhưng lão phu nhân và phu nhân hiền năng, chống đỡ môn hộ vững vàng, tiểu Thế tử thông minh hiếu học, tiểu thư lanh lợi đáng yêu, tuy không có nam chủ nhân tại triều nhưng nhờ vào dư âm tổ tiên và tài thế, vẫn chẳng ai dám khinh nhờn.
Thỉnh thoảng đêm khuya thanh vắng, ta một mình đứng dưới hành lang nhìn ánh trăng thanh lãnh rải xuống sân đình, sẽ nghĩ về Cố Cảnh Chu.
Chỉ là chẳng có niềm thương tiếc, cũng chẳng cần phải hối hận hổ thẹn.
[HẾT]