Chương 3 - Bát Mì Định Mệnh

4

Gần thư viện có vài hộ gia đình sinh sống. Hôm đó, thiếu niên tìm ta là Hứa Thường.

Hứa Thường dặn dò ta: “Người trong thư viện đều hòa nhã, các hộ dân ở đây cũng dễ nói chuyện, chỉ có điều đừng dính líu đến tên ‘chó ghẻ’.”

Chó ghẻ?

Hứa Thường căm giận nói: “Chính là A Hổ, thằng nhóc không cha không nương, chẳng ai dạy dỗ.”

Ta đã từng nghe người khác kể về đứa trẻ đó, A Hổ là một đứa trẻ mười tuổi, cha thằng bé tái hôn, mẫu thân thằng bé cũng đã đi bước nữa, để lại thằng bé một mình không ai muốn.

Không đứa trẻ nào muốn chơi với A Hổ, đều nói thằng né nói dối không chớp mắt, tay chân lại không sạch sẽ, chuyên trộm gà bắt chó.

Hơn nữa, thằng bé rất khỏe, thích đánh người, ai mà đắc tội với thằng bé, thằng bé sẽ lén đẩy đổ giàn mướp đêm khuya, mở chuồng gà mời chồn hoang đến dự tiệc.

Trẻ con ghét thằng bé thì cũng thôi, đáng lý ra, Hứa Thường hai mươi tuổi không nên kết thù với A Hổ mới phải.

Thế nhưng, hai năm trước, A Hổ bẫy thỏ rừng, khiến Hứa Thường ngã gãy chân, lỡ kỳ thi, bài thi năm đó lại là bài luận sử mà Hứa Thường giỏi nhất.

Từ đó Hứa Thường hận thằng bé, Hứa Thường định đánh A Hổ, nhưng thằng bé liền nằm lăn ra đất, như một tên côn đồ nhỏ:

“Đánh người rồi, đánh trẻ con rồi! Tiên sinh đánh người rồi!”

Hứa Thường nuốt không trôi cơn giận này, bèn mua kẹo cho đám trẻ quanh đó, để chúng đánh A Hổ một trận, A Hổ bị đánh, giống như một con chó ghẻ lăn lộn trong bùn:

“Xì, không đau, không đau tí nào.”

Không biết xấu hổ, không ai trong thư viện trị được thằng bé, Hứa Thường đành phải nhận phần xui xẻo này.

Không ngờ ta không chọc gì thằng bé, nhưng A Hổ lại thích chọc ta.

Thằng bé trộm con gà Lô Hoa của ta, rồi nướng ăn ở sau núi, chân gà nóng quá, rơi xuống đất, thằng bé cũng chẳng ngại bẩn, phủi bụi bên ngoài rồi nhét vào miệng.

Nuốt xuống làm rách vết thương, đau đến mức thằng bé hít một hơi, nhưng không ngăn được cơn đói.

Thằng bé ăn ngấu nghiến, không nhận ra ta đang đứng sau lưng, ta vỗ nhẹ vai thằng bé:

“Gà Lô Hoa nướng thế này không ngon đâu.”

A Hổ sợ hãi run lên, bị sặc, ho sù sụ.

Ta vỗ nhẹ lưng thằng bé:”Gà Lô Hoa phải hầm với nấm, hoặc xào lên làm món chan mì.”

Hai bát canh gà, thằng bé một bát, ta một bát, chỉ là bát của thằng bé có hai cái đùi gà.

Giống như ngày xưa khi ta nấu canh gà cho Bách Nhi và Mạnh Hạc Thư, cha con họ mỗi người một cái đùi.

A Hổ vừa hoài nghi nhìn ta, lại không cưỡng lại được mùi thơm của canh gà và đùi gà béo ngậy.

“Người muốn làm gì?”

“Ta muốn nói với con rằng, gà Lô Hoa thích hợp để hầm canh.”

“Canh có độc không? Người nghĩ ta không dám ăn à?”

A Hổ dũng cảm cầm bát lên, ta thấy thằng bé trợn tròn mắt ngay từ miếng đầu tiên.

Thằng bé ăn ngấu nghiến, ta nghi ngờ rằng thằng bé sắp nuốt cả lưỡi, ta không khỏi cảm thán, người ta nói không sai: “Nửa lớn con trai, ăn mòn cả của cha.”

Đến bát canh thứ ba, ánh mắt của A Hổ đã trong trẻo hơn.

“Sau này nếu đói, đừng trộm nữa, cứ đến đây ăn cơm.”

Thằng bé dùng tay áo bẩn đến mức không nhìn rõ màu sắc để lau miệng.

Dường như muốn nói gì đó, nhưng vừa ngẩng lên đã thấy Hứa Thường bước vào, thằng bé liền đặt bát xuống rồi bỏ chạy không nói lời nào.

Hứa Thường nhổ một bãi nước bọt về phía bóng lưng thằng bé:”Cô nương đừng mềm lòng, thằng nhóc đó là đồ vô ơn.”

Không phải là ta mềm lòng, ta chỉ nghĩ rằng một đứa trẻ biết quý trọng lương thực thì không thể xấu xa đến đâu.

Nhưng đến hôm sau, giàn đậu ta dựng sau trường đã bị đổ, Hứa Thường dẫn một đám người đến làm chứng, A Hổ đứng lúng túng bên cạnh giàn đậu bị đổ.

Chưa kịp để ta lên tiếng, A Hổ đã đẩy Hứa Thường một cái ngã nhào rồi vội vã chạy đi.

“Thằng nhóc này! Cô nương đối xử tốt với nó vậy, mà nó lại phá hoại vườn của cô nương.”

Ta suy nghĩ một chút: “Tối qua gió thổi suốt đêm, lại mưa to, có lẽ là do ta không dựng chắc.”

Tối đó, bên ngoài sân có một bóng đen lén lút.

Ta hâm nóng lại canh gà hôm qua, mùi thơm tỏa ra, bóng đen đó không còn ngồi yên được nữa.

“…Giàn đậu không phải do ta đẩy, ta nghe tiếng gió tối qua liền nghĩ, không biết giàn đậu của ngươi có bị gió thổi đổ không, nên đã chạy qua xem.”

“Nói ra rồi thì tốt, tại sao lại bỏ chạy?”

A Hổ cúi đầu, giọng nói mang theo chút nghẹn ngào:

“Ta không muốn chạy, nhưng ta sợ ngươi chưa kịp hỏi đã mắng ta trước.”

“Vậy sau này có chuyện gì, ta sẽ hỏi con trước, được không?”

A Hổ không trả lời, thằng bé nâng cả bát lên uống, bát che hết mặt, mãi không chịu đặt xuống.

Ta cười nói với thằng bé:

“Gà Lô Hoa mà ăn cùng nước mắt thì không ngon đâu, sẽ mặn đấy.”

5

Thấm thoắt đã đến mùa hạ.

Trong sân sau, tiếng ve rả rích làm cho không gian thêm yên tĩnh, bóng râm che mát cả khu vườn.

Các sĩ phu trong thư viện đều ra ngoài, hôm nay được rảnh rỗi, ta đem quần áo và chăn mền của sĩ tử ra phơi nắng.

“Không muốn học, đầu óc con kém cỏi,” A Hổ giúp ta cố định cái giàn phơi, vừa làm vừa lắc đầu, “Hơn nữa, người trong thư viện ai cũng ghét con, con cũng ghét họ.”

A Hổ năm nay mười tuổi, lớn hơn Bách Nhi ba tuổi, Bách Nhi đã biết đọc thuộc thiên tự văn, còn biết tính toán vài phép toán nhỏ.

Còn A Hổ thì chẳng hiểu gì cả, cũng không biết chữ nhiều, ta nghĩ sẽ tiết kiệm trong nửa năm, rồi tìm cho A Hổ một trường học.

“Con không biết chữ, lại không có tài cán gì, sau này người khác bắt nạt con thì làm sao?”

“Nếu có ai bắt nạt con, con sẽ nhờ mẫu thân bảo vệ!”

“Lúc đó mẫu thân đã già rồi, con sẽ làm sao?”

Nghe ta nói vậy, A Hổ buồn rầu nắm chặt tay áo ta:

“Mẫu thân sẽ không già! Mẫu thân không bao giờ được già!”

“Được rồi, mẫu thân không già, mẫu thân sẽ luôn ở bên con.”

Ta cúi xuống, lau nước mắt cho thằng bé, chợt nghe thấy có người gọi ta từ phía sau, giọng nói mang theo sự vui mừng không thể tin được:

“…A Kiều?”

Gió thổi những chiếc áo phơi trong sân tung bay như cánh buồm trên nước, tạo nên một cảnh tượng mờ mờ ảo ảo.

Ta đứng dậy, nhìn thấy Mạnh Hạc Thư đang dắt tay Bách Nhi đứng sau những cánh buồm đó, như thể cách một con sông:

“…Là A Kiều sao?”

Có lẽ vì chăm sóc thai phụ vất vả, Mạnh Hạc Thư đã gầy đi nhiều, hắn ta không dám bước tới, chỉ đứng đó nhìn ta, mắt đỏ hoe.

Chính Bách Nhi đã buông tay hắn ta ra, gọi “mẫu thân” rồi muốn như thường lệ chạy tới ôm ta làm nũng.

Nhưng lại bị A Hổ đẩy ngã xuống đất, A Hổ cảnh giác ôm chặt lấy tay ta, như một chú hổ con bảo vệ thức ăn:

“Ngươi là ai! Dựa vào đâu mà gọi mẫu thân ta là mẫu thân!”

Mạnh Hạc Thư ngạc nhiên, nhưng khi thấy A Hổ cao hơn Bách Nhi, hắn ta đã bớt đi một nửa nghi ngờ.

Ta đương nhiên không dám tự tin cho rằng, Mạnh Hạc Thư đã lặn lội đường xa tìm đến đây chỉ để tìm ta.

Ta chợt nhận ra điều gì đó, liền kiễng chân nhìn về phía sau lưng chàng:

“Chàng đến đây là vì Ngọc Chi cô nương phải không?”

Thấy ta hỏi cẩn thận như vậy, trong mắt Mạnh Hạc Thư đầy vẻ đau khổ, không phải ta cẩn thận.