Chương 4 - Tôi Ăn Nhờ Cậu Mười Năm
Chiếc điện thoại cũ mua từ năm lớp 11 – để đề phòng mẹ tôi tìm cách bắt tôi về gả chồng – đã đầy ắp tin nhắn từ Cố Dĩ Thành.
Tôi không dám mở một tin nào, tay run run xóa sạch, rồi chặn liên lạc.
Ra khỏi môi trường học đường, khoảng cách giữa tôi và Cố Dĩ Thành sẽ càng ngày càng lớn.
Nếu cứ tiếp tục ở bên cậu ấy, thì đúng là “người tốt không gặp điều lành” thật.
Tôi thừa nhận mình ích kỷ, tôi sợ cậu ấy nếu phát hiện ra, sẽ giận dữ mà trả thù.
Nhưng đến nước này rồi, tôi thật sự không biết phải đối mặt với cậu ấy thế nào.
Còn nửa học kỳ nữa mới đến kỳ thi đại học, tôi chọn rời đi bây giờ, cũng là vì không muốn ảnh hưởng đến tâm trạng của cậu.
Tôi dùng số tiền dành dụm hai năm để thuê giường trong một nhà trọ.
Mỗi khi làm thêm có tiền, tôi liền ăn uống no nê một chút.
Đó là điều mà những ngày còn sống nhờ vào Cố Dĩ Thành, tôi khao khát nhất.
Thời gian rảnh tôi vẫn không quên ôn sách, dù sao vào đại học rồi cũng còn phải tiếp tục học.
Học tốt thì mới có thể ra ngoài làm việc.
Sau khi nhận được học bổng của trường, tôi chuyển ra khỏi nhà trọ, mua một chiếc điện thoại rẻ tiền mới.
Đêm Giao thừa năm đó, tôi mua kha khá thịt và rau, co ro trong căn phòng thuê ăn lẩu một mình.
Tiếng TV náo nhiệt trộn lẫn với tiếng sôi ùng ục của nồi lẩu khiến đầu tôi nhức nhối.
Tôi lướt điện thoại trong vô định.
Cho đến gần 12 giờ, tiếng đếm ngược của chương trình Giao thừa vang lên,
Tôi tắt TV và điện thoại, chán nản leo lên giường đi ngủ.
9
Từ đó trở đi, tôi rất lâu rất lâu không còn gặp lại Cố Dĩ Thành nữa.
Lúc quay lại trường lấy bằng tốt nghiệp, cô chủ nhiệm nhắc qua một câu:
Cố Dĩ Thành không tham gia kỳ thi đại học.
Nhà cậu ấy làm ăn phát đạt, kiếm được nhiều tiền, đã đưa cậu ra nước ngoài du học rồi.
Tôi cầm chặt mép tờ bằng tốt nghiệp, mỉm cười:
“Cũng tốt, ở nước ngoài tài nguyên nhiều hơn, cơ hội cũng nhiều hơn.”
Cảm xúc… thật khó nói.
May mắn? Nhẹ nhõm?
Hay là… tiếc nuối?
Tôi không thể phân biệt rõ được.
Có lẽ là bởi vì tôi đã sớm hiểu rằng giữa tôi và cậu ấy, sớm muộn gì cũng sẽ đi hai con đường khác nhau.
Cho nên khi điều đó thực sự xảy ra, lòng tôi mới bình thản đến vậy.
Sau khi tốt nghiệp, tôi thử gọi cho bố một cuộc.
Lần này ông ấy nghe máy.
“Tôi để chìa khóa dưới chậu hoa trước cửa nhà rồi, khi nào về thì lấy.”
Bên kia im lặng một hồi, cuối cùng giọng người đàn ông khẽ khàng, mang theo chút áy náy:
“Mấy năm nay… mẹ con không quan tâm gì đến con à?”
Tôi không nói gì.
“…Ờ, tôi biết rồi.”
Cúp máy xong, tôi lại gọi cho mẹ.
Bà không nghe.
Tôi cũng không cố gọi thêm.
Họ không quản tôi, cũng chẳng mong nhận được gì từ tôi.
Đều mong cắt đứt quan hệ cho nhẹ gánh.
Cũng tốt.
Vì điều đó, tôi cảm thấy may mắn.
Vào Đại học A, dựa vào học bổng khá lớn từ cả trường cấp ba lẫn trường đại học,
Tôi có bốn năm đại học tương đối dư dả về mặt tài chính.
Không còn phải lo ăn lo mặc, việc học của tôi còn nhẹ nhàng hơn cả hồi cấp ba.
Suốt quãng thời gian đại học, tôi thi lấy rất nhiều chứng chỉ, thành tích luôn đứng đầu.
Khi đã có sở thích, tôi cũng bắt đầu có bạn bè thân thiết, có người có thể tâm sự.
So với “phó bản” hỗn loạn và khắc nghiệt mang tên “trung học”,
Đại học đối với tôi giống như một cuộc sống phẳng lặng, dễ thở.
Cũng có người theo đuổi tôi,
Nhưng có lẽ vì hồi cấp ba đã bị Cố Dĩ Thành “nuôi hư mắt”,
Nên chẳng ai lọt được vào mắt tôi cả.
Dù không thích ai, nhưng chuyện mở rộng tầm mắt, giao lưu quan hệ thì tôi cũng không bỏ lỡ.
Sau bốn năm, tôi không chọn học tiếp cao học.
Dù giờ tôi không còn túng thiếu,
Nhưng nỗi sợ bị tiền bóp nghẹn, từng trải qua trong quá khứ, vẫn in sâu trong tâm trí tôi – không dễ xóa nhòa.
Hơn nữa, tôi đã trúng tuyển một công việc với mức lương và chế độ đãi ngộ cực kỳ tốt.
Tôi cũng không phải kiểu người có đam mê đặc biệt với học thuật.
So sánh hai bên, tôi quyết định đi làm.
Chỉ là tôi không ngờ —
Ngay trong ngày đầu tiên đi làm, trong buổi họp toàn công ty,
Tôi lại thấy Cố Dĩ Thành ngồi ở vị trí… sếp trực tiếp của mình.
10
Đó là buổi họp toàn công ty.
Cả một hội trường rộng lớn kín chỗ, người ngồi đông nghịt như biển người, ồn ào náo nhiệt.
Còn cậu ấy – Cố Dĩ Thành – thì ngồi trên sân khấu chính với chỉ vài chiếc ghế dành cho ban lãnh đạo.
Dưới ánh đèn rọi xuống, bóng dáng thiếu niên non nớt năm nào đã biến mất hoàn toàn.
Chỉ còn lại một người đàn ông điềm tĩnh, thành thạo trong thương trường, phong thái ung dung đầy bản lĩnh.
Tôi sững người, có phần kinh ngạc.
Rồi ngay lập tức, ý nghĩ đầu tiên lướt qua đầu tôi lại là:
Không còn tôi là gánh nặng, cậu ấy đúng là càng trở nên xuất sắc hơn.
Lúc đó tôi hoàn toàn không nghĩ rằng cậu ấy sẽ nhận ra tôi.
Xem TV bao nhiêu lần, tôi vẫn luôn thấy mấy cảnh “giữa biển người, một ánh nhìn tìm được nhau” thật hoang đường.
Nhưng mà…
Cố Dĩ Thành vừa trò chuyện với người bên cạnh xong, bỗng nhiên xoay đầu nhìn xuống khán phòng.
Ánh mắt cậu dừng lại, rồi…
Khóa chặt lấy tôi.
Rất kỳ lạ.
Biết bao nhiêu người ngồi ở đây,
Vậy mà tôi chỉ cần liếc mắt đã biết – cậu đang nhìn tôi.
Trên gương mặt người thanh niên kia, không còn nhiều cảm xúc như thời thiếu niên nữa.
Cậu đang cười.
Nụ cười ấy không giống nụ cười vừa rồi khi trò chuyện với người khác. Nhưng dù sao, vẫn là đang cười.
Ngoài nụ cười ra, không có thêm biểu cảm nào.
Tôi vội vàng dời mắt đi, trong lòng bắt đầu thấp thỏm.
Sớm biết Cố Dĩ Thành lại là sếp trực tiếp của tôi,
Dù có thế nào, tôi cũng sẽ không tới công ty này làm việc.
Nhưng trớ trêu thay, tôi đã đến rồi.
Lương ở đây rất tốt, công việc lại rất hợp với tôi.
Tôi không thực sự muốn từ bỏ.
Cả buổi họp, tôi chẳng nghe lọt được câu nào, đầu óc mơ hồ như cháo loãng.
Đến khi chuẩn bị tan họp, tôi phát hiện ra – Cố Dĩ Thành vẫn đang nhìn mình.
Tôi ủ rũ nghĩ thầm:
Thôi rồi, chắc tôi nên đi ôn thi cao học lại thôi…
Tôi từng nghĩ sẽ có người đến nói tôi hãy ở lại sau buổi họp, hoặc báo tôi đến văn phòng của Cố Dĩ Thành.
Nhưng cuối cùng, lại chỉ là một tin nhắn từ số lạ:
[Tớ có chuyện muốn nói với cậu.]
Số điện thoại không phải số cũ, nhưng tôi vừa nhìn đã biết ngay – là ai gửi.
Nhân viên lục tục rời khỏi hội trường, căn phòng đông đúc dần trở nên vắng vẻ.
Tôi vẫn ngồi yên tại chỗ, không nhúc nhích.
Cố Dĩ Thành đi ra cùng mấy vị lãnh đạo cấp cao.
Nhưng chưa đầy một lát, cậu lại quay trở lại.
Chân dài sải mấy bước đã đến chỗ tôi, ngồi xuống bên cạnh.
Giống như… năm xưa chúng tôi ngồi cùng bàn vậy.
Cậu lặng lẽ nhìn tôi hồi lâu.
Rõ ràng đã nhìn rất lâu từ trên sân khấu, vậy mà bây giờ đối mặt rồi, vẫn cứ nhìn mãi.
Một lúc sau, đột nhiên – cậu khẽ bật cười.
Thanh niên ấy lên tiếng:
“Giang Thanh Mạch, ăn chùa không phải là thói quen tốt đâu.”
Quả nhiên, quả nhiên là câu này.
Tôi không bất ngờ, thậm chí còn có một cảm giác — cuối cùng cũng đến rồi.
Tôi bình tĩnh gật đầu, nói:
“Năm xưa là tôi có lỗi với cậu. Bây giờ cậu muốn trả thù, cũng là điều nên làm.”
Cố Dĩ Thành bất ngờ bật cười thành tiếng.
Cậu đứng dậy, nhún vai:
“Được thôi, là cậu nói đó nhé.”
Thanh niên ấy lấy điện thoại từ túi ra, mở mã QR của WeChat, đưa tay ra:
“Thêm bạn đi.
Sau đó, cùng tớ đi ăn một bữa.”
11
Cố Dĩ Thành đưa tôi đến một quán ăn nhỏ xíu, kiểu quán “ruồi bu” ven đường.
Trong tiệm rất đông, ông chủ tất bật đến nỗi chân không chạm đất.
Bà chủ cũng chỉ kịp ghi đơn cho chúng tôi rồi lại vội vàng chạy vào bếp phụ giúp.
Bàn ăn được lau qua loa, vẫn còn vết dầu mỡ lấm tấm.
Cố Dĩ Thành mặc một bộ vest đắt tiền, vậy mà lại thản nhiên cầm giẻ lau tự mình lau sạch mặt bàn.
Khoảnh khắc ấy khiến tôi thấy có chút… chênh vênh.
Bộ quần áo ấy vốn nên xuất hiện trong nhà hàng Âu sang trọng, chứ không phải trong một quán ăn chật hẹp mùi khói dầu thế này.
Nhưng Cố Dĩ Thành thì trông rất thoải mái, chẳng hề ngại ngùng.
“Không hỏi cậu muốn ăn gì, tớ tự gọi luôn rồi,” – cậu mỉm cười dịu dàng – “Nhưng tớ nghĩ, chắc cậu cũng sẽ chọn những món ấy thôi.”
Ban đầu tôi chưa hiểu ý cậu là gì.
Mãi đến khi đồ ăn được bưng lên, tôi mới sững người –
Tất cả đều là những món tôi thích.
Nói chính xác hơn, là những món tôi thường thích ăn trong quãng thời gian cấp ba – khi còn thường xuyên “ké cơm” bên Cố Dĩ Thành.
Dù rằng, những bữa ăn đó tôi chẳng có tư cách gì để kén chọn.
Nhưng con người luôn có khẩu vị riêng.
Dù vì đói mà cái gì cũng nuốt được, nhưng thứ gì ăn trước, thứ gì ăn sau – đều có thứ tự trong lòng.