Chương 2 - Sự Thật Đằng Sau Ánh Mắt
Tim ta khẽ giật mình, vội cười khổ:
“Lâm đại phu đã khám mắt cho ta suốt năm năm nay, nếu có thể khỏi, hẳn đã khỏi từ lâu. Tuệ Nhi, em không cần nói mấy lời dỗ dành ta, ta sớm đã chấp nhận số phận rồi.”
Tuệ Nhi nghe vậy, nét dò xét và hoài nghi trên mặt tan đi quá nửa.
Đúng lúc ấy, cửa phòng bị đẩy ra.
Tuệ Nhi xoay đầu, lanh lảnh gọi:
“Thiếu gia, người đã về rồi, phu nhân vừa mới tỉnh lại.”
Chính là phu quân ta, Triệu Nguyên Sơn đã trở về.
Kể từ khoảnh khắc ta trông thấy nữ nhân kia trong phủ Tấn An Hầu, sợi dây căng thẳng trong lòng ta vẫn luôn kéo chặt. Giờ phút này, cuối cùng mới buông lỏng xuống.
2
Phu quân của ta – Triệu Nguyên Sơn – cùng ta là thanh mai trúc mã.
Ta tự nhỏ đã có dung nhan xuất chúng, mà nhà họ Triệu lại thế thấp, Triệu Nguyên Sơn sợ cưới ta về sẽ không che chở nổi, nên mới mười lăm tuổi đã xin đi biên ải.
Năm năm sau hồi kinh, hắn từ một tiểu binh đã làm tới Phó tướng.
Dẫu chỉ là Phó tướng, nhưng lại là Phó tướng của Tam hoàng tử khi ấy.
Năm sau khi hồi kinh, Tam hoàng tử đăng cơ xưng đế, Triệu Nguyên Sơn lập tức trở thành nhân vật được người người coi trọng.
Ai ai cũng nói, ghế Thượng thư Binh bộ là tân đế để dành cho Triệu Nguyên Sơn.
Thế nhưng, mặc cho các thế gia vọng tộc hay hoàng tộc tông thất đưa thiếp kết giao, hắn đều khước từ, lại sốt ruột tìm mối mà định hôn sự của ta với hắn.
Hắn vì thế đắc tội Lật Vương.
Hôm Lật Vương phái người giáo huấn hắn, ta và hắn vừa khéo đang dâng hương ở miếu Nguyệt Lão.
Để bảo vệ Triệu Nguyên Sơn, ta trúng độc mà thành kẻ mù.
Ta mù rồi, Triệu Nguyên Sơn ôm ta khóc một trận, rồi quỳ ba lần chín lạy trước cung môn, cầu bệ hạ nghiêm trị Lật Vương.
Lật Vương với đương kim Hoàng đế tuy lúc tranh ngôi từng có hiềm khích, song rốt cuộc vẫn là huynh đệ đồng mẫu.
Ngài muốn nhẹ tay cho qua.
Triệu Nguyên Sơn lại không chịu, quấy rầy triều đình, đòi Lật Vương phải trả giá.
Cuối cùng, Hoàng đế đành đổi phong địa của Lật Vương, từ phú địa Dự Châu xuống thứ địa Thôi Châu, để răn người.
Triệu Nguyên Sơn vì vậy mất thánh tâm, từ đó tại vị Phó tướng mà chẳng tiến thêm tấc nào.
Ta áy náy khôn nguôi, nhưng Triệu Nguyên Sơn chỉ cười bảo không sao, quyền thế lợi lộc trong mắt hắn, chẳng bằng ta quan trọng.
Chúng ta thành thân.
Sau cưới, Triệu Nguyên Sơn đối với ta rất tốt.
Ta vì mất sáng nên không chịu ra ngoài, khi hắn không trực thì cứ ở nhà bên ta.
Năm thứ hai thành thân, phụ thân và A đệ ta dẫn đoàn thương sang Mạc Bắc buôn lông thú, chẳng may gặp tặc khấu bỏ mạng.
Triệu Nguyên Sơn thay ta lo liệu hậu sự của họ.
Từ ấy, ta ở đời này không còn thân cận nào khác, hắn sợ ta chịu ủy khuất, càng tận tâm chăm sóc, một mực chu đáo.
Ba ngày trước, kinh thành xuất hiện một tên đại đạo, Triệu Nguyên Sơn bận rộn truy bắt, không thể về nhà.
Ta nghĩ, người của Tấn An Hầu phủ hẳn là thừa lúc hắn vắng mà bắt ta đưa đi.
“Vân Hoàn, nàng cảm thấy thế nào?” Triệu Nguyên Sơn nắm tay ta, gương mặt đầy lo lắng và áy náy, “Là ta có lỗi, nếu không vì ta mấy ngày chưa về, nàng cũng chẳng phải chịu kinh sợ này.”
Hắn phất tay với Tuệ Nhi, Tuệ Nhi phúc lễ, rồi lui ra.
“Nguyên Sơn, thiếp không sao.” Ta mỉm cười, “Nếu không gặp việc này, thiếp cũng chẳng được phúc trong họa.”
“Phúc trong họa gì?” Triệu Nguyên Sơn ngạc nhiên.
Ta đang định báo cho hắn tin đôi mắt đã thấy lại, chợt liếc thấy dưới khe rèm cửa có một đôi giày xanh tro.
Trên mũi khâu hai hạt cỏ đỏ, chính là lễ Thượng Nguyên năm nay ta ban thưởng cho Tuệ Nhi.
Nàng đang ngoài rèm giám thị ta cùng phu quân.
Ta đành nuốt lời vào bụng, đổi giọng: “Phu quân bận công vụ, mấy ngày chẳng về, nay trong phủ xảy ra hỏa hoạn mà chàng lập tức về gặp thiếp, đối với thiếp, sao lại không tính là phúc trong họa?”
Triệu Nguyên Sơn bật cười: “Nếu nàng nhớ ta, sai người đưa khẩu tín tới nha môn là được. Vân Hoàn, ta mong đời này nàng việc việc đều thuận, vô họa vô ưu.”
3
Soi lại, Tuệ Nhi không nghi ngờ gì nữa chính là tai mắt của Tấn An Hầu phủ.
Ta cần phải tìm cách đuổi Tuệ Nhi đi, mới có thể nói rõ mọi việc với Triệu Nguyên Sơn.
Nhưng ta không biết trong phủ còn bao nhiêu kẻ đã bị Tấn An Hầu mua chuộc.
Ta không thể vô cớ đuổi nàng, làm vậy sẽ rút dây động rừng.
Vì thế, trước mặt Tuệ Nhi, ta vẫn giả mù, giả như vẫn dựa dẫm tin nàng.
Thời gian khó trôi như ngựa trắng qua khe cửa.
Năm ngày sau, rốt cuộc ta cũng đợi được cơ hội.
Hôm ấy là ngày giỗ mười năm của mẹ Tuệ Nhi, huynh nàng tìm đến cầu xin cho nàng về nhà mấy hôm, bởi sắp cùng thân nhân vào Tô Châu mưu sinh, đi rồi khó gặp lại.
Ta thuận tình.
Tuệ Nhi đi, Liễu Nhi hầu cận bên ta.
Liễu Nhi khác với Tuệ Nhi, từ nhỏ đã tham ăn, trên người toàn nhược điểm, muốn đuổi nàng không động thanh sắc dễ hơn nhiều.