Chương 6 - Sống Lại Trước Tận Thế
Tôi trả giá gấp ba lần bình thường, nên ba đội thợ làm việc cực kỳ nhanh gọn – chỉ nửa ngày là đã thay toàn bộ cửa ra vào và cửa sổ bằng thiết bị hợp kim cao cấp nhất.
Tường rào quanh nhà được bao phủ bằng hệ thống điện bảo vệ, gắn thêm cả hàng rào thép cao vút chống vượt tường.
Cuối cùng, tôi cho lắp camera siêu nhỏ ở phạm vi 500 mét quanh nhà.
“Cô em, ra đây mà xem cái này nè!”
Ông chủ gọi lớn từ phía sau nhà, tiếng gõ lạch cạch liên hồi.
“Gì thế ạ?”
Tôi bước ra sau vườn thì thấy mấy cậu thợ đang vây quanh một đoạn ống nước ở góc sân, tò mò nhìn xuống.
Ông chủ chỉ vào đó, ngạc nhiên nói:
“Nhà cô còn một cái giếng kiểu Tây này nhé. Tôi kiểm tra thấy dưới đó vẫn còn nước đấy.
Có cần tôi lắp lại hệ thống bơm cho cô không? Tưới cây, trồng rau thì tiện cực.
Giá rẻ thôi, thêm cho tôi 50 vạn là được!”
Tôi cũng thấy bất ngờ.
“Hồi xưa đúng là có cái giếng này, do ông nội tôi đào. Nhưng phần ống bơm trên bị hỏng nên bỏ luôn.”
Cái giếng này gọi là “giếng kiểu Tây”, hay còn gọi là giếng bơm tay.
Chỉ cần một ống dẫn chọc xuống mạch nước ngầm, rồi dùng lực tay ấn vào cần bơm là có thể kéo nước lên.
Trước khi có nước máy, loại giếng này từng rất phổ biến và hiện đại.
“Chuyện nhỏ thôi cô em.
Đợi tôi chút, nhà tôi có sẵn hàng!
Tiểu Đường, chạy ra cửa hàng một chuyến, kêu chị dâu mày mang cái bơm giếng kiểu Tây trong kho ra đây – cái mua trên 78 ấy!”
Tiểu Đường đáp: “Cái mà anh mua trên mạng lần trước đúng không? Biết rồi!”
Cả đội thợ đều phá lên cười.
Tôi chẳng để tâm, cười cười rồi quét mã trả tiền:
“Giúp lúc cần là quý nhất. Anh giúp tôi bấy nhiêu, tôi trả thêm là xứng đáng!”
Lần này tới lượt ông chủ ngượng đỏ mặt.
“Cô em này tôi quý đấy! Thôi được, coi như đền đáp lòng tốt của cô, tôi giúp luôn cô dọn dẹp cái hầm chứa rau dưới bếp – miễn phí nhé!”
“Thế thì cảm ơn anh nhiều!”
Trước khi họ về, tôi còn cẩn thận xin kết bạn Zalo với ông chủ để tiện liên hệ, đồng thời cảm ơn rối rít.
Tôi biết dưới bếp có cái hầm nhỏ để muối rau, do ông bà để lại.
Ngày trước, bà nội tôi rất hay dùng để muối dưa, làm kim chi, nhưng vì tôi không thích mùi nên hầu như chẳng bao giờ xuống đó.
Sau khi dọn dẹp xong, ông chủ cho biết hầm rộng khoảng 10 mét vuông, bên trong vẫn còn mùi mốc và mùi dưa muối nồng nặc.
Tôi chưa nghĩ ra sẽ dùng chỗ này làm gì, nên tạm thời đặt một túi than hoạt tính lớn vào, mở cửa thông gió, rồi dùng thuốc khử trùng lau dọn sơ hai lượt.
8
Chuỗi ngày chuẩn bị bận rộn như chạy đua với thời gian cứ thế trôi qua rất nhanh…
Tôi lắp cánh cửa gỗ táo do công ty xây dựng đặt riêng vào phía sau cánh cửa sắt của hầm trú ẩn.
Quái vật trong tận thế không thể xuyên tường, có thêm cánh cửa này, căn hầm trở thành nơi an toàn nhất.
Lần cuối tôi đến thôn họ Tằng, số hàng mã so với lần trước đã tăng lên gấp đôi, chất cao như núi.
Mấy hôm nay thời tiết bất thường, mưa liên miên, không khí ẩm lạnh buốt người.
Mọi hàng mã đều được phủ bằng lớp màng mỏng trong suốt để tránh nước mưa thấm vào.
Ông cụ Tằng đội mũ tế trắng, toàn bộ người dân trong làng – từ trẻ đến già – đều mặc áo vải gai nghi lễ, trang phục chỉ dùng trong dịp tế lễ.
“Chị ơi, đây là tên của các liệt sĩ trong nghĩa trang và ông bà nội ngoại của chị.
Tên tổ tiên của bọn em cũng được viết sẵn rồi.”
Cô bé thắt nơ đỏ đưa cho tôi một tờ giấy vàng, mỉm cười nói.
“Chỉ cần dán hết những cái tên này lên hàng mã, rồi đốt là được!”
Hàng loạt vật phẩm giấy được đưa vào lò thiêu, làn khói đen đặc bốc lên thành những đám mây u ám trên trời.
Tôi đang lo liệu số lượng đốt lớn như vậy có gây ô nhiễm không, thì thấy những làn khói đen cuộn trào bay về phía nghĩa trang liệt sĩ.
“Tổ tiên phù hộ!”
Ngực tôi như nghẹn lại, tim đập mạnh.
Trong ánh lửa cháy rực, tôi dường như thấy được đôi bàn tay của ông bà đặt lên vai mình — cảm giác thân thuộc đến nỗi khiến người ta muốn bật khóc.
“Bà ơi?”
Tôi quay ngoắt đầu lại, ảo ảnh biến mất, chỉ thấy ánh mắt trong trẻo của Tằng Ý đang nhìn mình. Cậu ấy mỉm cười:
“Đừng buồn nữa. Họ đã nhận được tấm lòng của chị rồi.”
Lửa cháy suốt ba ngày ba đêm.
Sau đó lại tiếp tục đốt thêm ba ngày ba đêm nữa.
Đến ngày thứ bảy, lửa bắt đầu yếu dần, thậm chí có lúc không bắt được lửa, trong khi vẫn còn 1/10 số hàng mã chưa được đốt.
Tằng Ý giải thích: “Chắc là đốt nhiều quá, tổ tiên ăn không kịp.”
Tôi sững người: “Gì cơ? Nghĩa trang liệt sĩ đông thế mà khẩu phần lại ít vậy à?!”
Không còn thời gian, tôi dứt khoát viết tên mình cùng ngày tháng năm sinh lên giấy vàng, dán lên hàng mã chưa cháy.
Chú Tằng “ồ” lên một tiếng: “Lạ thật, làm nghề này bao nhiêu năm, đây là lần đầu tiên tôi thấy hàng mã đốt cho người sống mà cháy được.”
Tim tôi khẽ run.
“Phừng!!”
Ngọn lửa bùng lên dữ dội, trời đất bỗng tối sầm lại, mây đen vần vũ trên bầu trời.
Ông cụ nhíu mày: “May mà đốt kịp… Thời tiết dạo này thất thường, chắc sắp có mưa lớn rồi!”
Đêm trước tận thế, tôi đóng kín tất cả cửa sổ, tắt mọi thiết bị điện tử, ngồi yên trong căn phòng an toàn chứa vật tư, chờ đợi phán quyết của số phận.
Kiếp trước, tôi chưa từng được trải nghiệm khoảnh khắc tận thế giáng xuống như thế nào.
Lần này tôi thức trắng đêm, ánh đèn pin rọi sáng căn phòng sâu dưới lòng đất 20 mét, tôi nhắm mắt lại, tim đập thình thịch.
Mấy ngày trước, tôi liên tục nói với người dân làng họ Tằng rằng thành phố đã bùng dịch, dặn họ tuyệt đối không được ra khỏi nhà trong những ngày này.
Tôi còn gửi tin tức về dịch bệnh cho những người quen biết trong thời gian gần đây.
Hầu hết đều cảm ơn tôi vì đã nhắc nhở.