Chương 6 - Phu Quân Thất Tình Rồi
14
Ta và Thẩm Thường An trở về phủ Trung Cần Hầu.
Báo ứng đến nhanh vô cùng.
Hôm qua ta cười nhạo Thẩm Thường An ra sao, thì hôm nay ta phiền não bấy nhiêu.
Trên đường về phủ, đầu óc ta chỉ toàn là hình ảnh Thương Thì Việt lộ vẻ đau khổ khi ta dặn mẫu thân đưa hắn rời khỏi kinh thành.
“A Vũ, phải chăng nàng chưa từng động tâm với ta?”
Khi ấy, mặt hắn trắng bệch, mắt đỏ hoe, khàn giọng hỏi ta.
Tâm? Ai mà có thứ ấy?
Ta đã đáp như vậy.
Thế nhưng sau khi về phủ, trông thấy Thẩm Thường An đang rửa mặt thay y phục trong chính phòng, ta lại không nhịn được mà nheo mắt hỏi:
“Phu quân, tiểu thiếp của chàng đã dỗ được rồi sao?”
Đêm qua chàng đột nhiên đổi tính, gạt hết sầu muộn, chủ động muốn cùng ta viên phòng.
Lúc này đây, vẻ mặt bình thản đến mức ta nghi ngờ liệu có phải chàng đang cố khoe khoang.
Ta hỏi thử để thăm dò.
Tưởng rằng chàng sẽ như trước, hờ hững cho qua.
Nào ngờ tay chàng khựng lại, ngẩng đầu nhìn ta, nghiêm nhiên đáp: “Phu nhân, chi bằng chúng ta sinh một đứa con đi.”
Ta bật cười.
Cười đến tức giận.
Lần này không phải nghi ngờ.
Mà là đã xác định—Thẩm Thường An thật sự coi ta là kẻ ngu rồi.
15
Tối nay, trước khi lên xe,
Mẫu thân kéo tay ta, khẽ nói mấy câu…
Mẫu thân ta nói: “Thanh Vi, đường đệ của Nguyệt di nương làm chưởng quỹ ở Ngọc Tuyền Đường, hôm qua sau khi tiểu thiếp bên Thẩm gia náo loạn hầu phủ, đại phu của Ngọc Tuyền Đường liền bị mời tới.”
“Nàng ta đã có thai hơn hai tháng.”
“Thẩm gia không hề xử phạt, còn an bài nàng ở lại phố Hoè Hoa.”
Lời của phụ thân ta có thể chẳng đáng tin.
Nhưng lời của mẫu thân và các di nương, ta tin đến trăm phần trăm.
Hôn sự giữa ta và Thẩm Thường An là chàng đích thân cầu thánh chỉ ban hôn.
Đã là thánh ân, thì dù là chính thê chưa mang thai đã nuôi ngoại thất, hay ngoại thất mang thai trước chính thê, rồi sủng thiếp diệt thê, đều chẳng khác nào vả thẳng vào mặt Thánh nhân.
Thế nhưng nếu là ta có thai, thì lại hoàn toàn khác.
Chính thê mang long thai, thì dù có nạp thiếp hay nuôi tiểu thiếp, cũng là “danh chính ngôn thuận.”
Dẫu sao nam nhân mà, không chịu được mười tháng một năm cũng là chuyện ai ai đều có thể thông cảm.
Nhưng ta—ta thì không thể thông cảm dù chỉ một chút.
Bởi vì, ta cũng không muốn nhịn mười tháng một năm.
“Đêm qua vừa biết tiểu thiếp có thai, liền không kịp đợi mà đòi ta viên phòng.”
“Lời đồn đã đè xuống được rồi? Định đợi ta sinh xong, thì rước người vào cửa, danh chính ngôn thuận?”
“Ồ… thật đúng là tình yêu đích thực nhỉ?”
Ta thừa nhận, lòng ta có chút chua xót.
Không phải vì ghen với tình ý chàng dành cho tiểu thiếp, hay vì nghĩ trong tim chàng chẳng có ta.
Mà là vì, chàng nuôi ngoại thất, chỉ cần chút thủ đoạn, là có thể danh chính ngôn thuận rước vào phủ.
Còn ta nuôi ngoại thất, thì cả đời chỉ có thể giấu giấu giếm giếm.
Càng nghĩ, ta càng thấy tức.
Ngồi xuống, chân vắt lên, ta liền giương mắt lườm chàng.
“Thẩm Thường An, tuy hôn sự của chúng ta ta cũng không làm chủ được, nhưng nếu chàng chịu mở miệng cầu ta, ta thay chàng đi cầu hôn nạp thiếp, thì ta cũng không phải không thể làm.”
“Cùng lắm thì bị chê cười, danh tiếng của chàng xấu đi đôi chút, bị Thánh thượng mắng vài câu, cũng đâu mất mát gì.”
“Vậy mà chút tổn thất ấy chàng cũng không chịu nhận… sao vậy? Coi ta là cỏ non để nhổ mãi chắc?”
Lời ta nói thẳng đến vô tình.
Vừa là để châm chọc việc lần trước chàng tự tiện làm chủ.
Rõ ràng hôn sự giữa hai nhà có thể âm thầm quyết định, chàng lại cứ khăng khăng cầu chỉ ban hôn, mượn chuyện thành thân để khiến Thánh thượng chú ý đến phủ hầu, giúp phụ thân chàng trở lại triều đình.
Cũng là để nói rõ—lần này, chàng lại một lần nữa đem ta ra tính kế.
Chàng không ngu, sao lại chẳng hiểu?
Quả nhiên, lời vừa dứt, sắc mặt chàng lập tức lạnh xuống.
Nhưng tay nắm thành quyền, ánh mắt sâu thẳm như vực.
Một lúc sau, mới khép mắt lại, hạ giọng nói: “Chu Thanh Vi, phu thê chúng ta, cần gì phải giương cung giương nỏ như vậy?”
Thành thân chưa đầy một tháng, khi chàng dọn ra phố Quế Hoa, chẳng phải đã bắt đầu căng như dây đàn rồi sao?
Giờ lại giả bộ mềm mỏng?
Ta bỗng thấy buồn cười.
Đứng dậy, vỗ vai chàng, nở nụ cười giả lả: “Phu quân yên tâm.”
“Cả đời này thiếp sẽ không sinh con cho chàng đâu.”
Thật thất lễ.
Ta sinh ra đã ngỗ ngược, cứ thích giương cung kéo nỏ.
16
Đêm ấy quả thật náo nhiệt.
Chủ yếu là ta náo nhiệt.
Sau khi ném sạch đồ đạc của Thẩm Thường An ra khỏi phòng ngủ, ta liền khoá cửa lại.
Rốt cuộc không cần lo nửa đêm chàng lại nổi hứng, bắt ta làm tròn bổn phận thê tử.
Nhưng cả đêm ấy, ta cũng chẳng ngủ yên.
Trong mộng, lúc thì là Tần Tô Tô ôm chân ta, khóc lóc cầu ta ban danh phận;
Lúc thì là Thương Thì Việt quỳ dưới đất, hỏi ta vì sao người khác có danh phận, mà hắn cả đời chỉ được làm ngoại thất.
Mộng chẳng lành.
Tỉnh mộng, liền nghe nha hoàn của mẫu thân truyền lời—Thương Thì Việt đã bị đưa ra khỏi kinh thành.
Ta quyết định cải trang đến kỹ quán, định chọn lại một ngoại thất mới.
Nhưng người thứ nhất, dung mạo chẳng bằng Thương Thì Việt.
Người thứ hai, cơ ngực cũng không nở nang bằng hắn.
Nói đến to lớn…
Ta liền bảo với người thứ ba: “Cởi quần ra xem có lớn không.”
Người thứ ba đỏ mặt, rụt rè do dự, chẳng bằng Thương Thì Việt hào sảng.
Đổi lại là Thương Thì Việt, chưa cần ta hỏi, đã sớm lột sạch trơn, không sót lại mảnh vải.
Ta có chút mất hứng, một kẻ cũng không chọn được.
Mang theo thất vọng mà quay về, lại nghe mẫu thân sai người đến truyền lời.
“Thương Thì Việt chạy rồi.”
17
Thương Thì Việt đã bỏ trốn.
Vừa ra khỏi kinh thành liền đánh ngất người đi theo, chẳng rõ tung tích.
Mẫu thân nói, dặn ta dạo này nên thu liễm, đề phòng hắn thẹn quá hóa giận mà quay lại báo thù.
Nhưng ta lại thấy, sự lo lắng của mẫu thân thật dư thừa.
Dẫu sao đầu óc Thương Thì Việt cũng không nhanh nhạy, làm gì nghĩ ra được kế mưu phản kích.
Quả nhiên, hai tháng trôi qua yên ổn như nước giếng không gợn sóng.
Yên đến mức, ta chỉ còn hai chuyện để phiền lòng.
Một là: Tần Tô Tô tuy không gây náo loạn thêm, nhưng Thẩm Thường An vì muốn dập tin đồn, vì muốn giữ thể diện hầu phủ, ngày nào cũng quay về phủ ngủ.
Hai là: từ khi không còn Thương Thì Việt làm ngoại thất, bao nhiêu tinh lực trong người ta chẳng biết dồn vào đâu.
Ngày dài tháng rộng, lòng dạ ta bắt đầu bứt rứt bồn chồn.
Có lẽ bởi ta cứ chần chừ như vậy, nên thuốc an thai từng thang từng thang vẫn được đưa đến phố Quế Hoa đều đặn.
Bà bà ta—người quanh năm khóa mình trong từ đường tụng kinh lễ Phật—rốt cuộc cũng không ngồi yên được nữa.
Bỗng dưng gọi ta và Thẩm Thường An cùng theo bà lên miếu Lục Hoa dâng hương.
Trên đường, bà vừa lộ vừa kín bóng gió nhắc ta: “Là nữ nhân, vốn nên sinh con dưỡng cái, nối dõi tông đường.”
“Đã làm chính thất, thì chớ nên hay ghen tuông.”
Lên tới núi, bà còn đưa ta vào phòng khách phía sau,