Chương 4 - Phu Quân Ta Là Hồ Yêu Chín Đuôi

Nửa đường lại nhảy ra một vị Thiếu quân Thanh Khâu!

Không, là hai người — còn có cả công chúa nước Trần nữa kìa.

Nói xong, Tư Tinh nhíu mày, trông có vẻ rối rắm, lật lại văn thư mệnh cách đã từng tra trong Chưởng Tinh Ty, quay mặt lầm bầm như tiếng muỗi kêu:

Công chúa nước Trần từ đâu chui ra thế? Trong mệnh thư có ghi đâu nhỉ?

Ta nghe không rõ, hỏi: “Ngươi nói gì?”

“Không, không có gì.”

Hắn thu quạt lại, lắc đầu thở dài, tặc lưỡi: “Một vũng nước đục, khó nhúng tay vào, khó lắm…”

Ta nhấp một ngụm trà, hương trà thanh nhã, là trà thượng hạng do Thanh Khâu gửi đến.

Ta khẽ chậc một tiếng.

Tư Tinh biết ta đang nghĩ gì.

Đường đường là Đế cơ, ta dĩ nhiên không thể hạ mình đường hoàng đi tìm hắn.

Nhưng điều đó không có nghĩa là — ta không thể ép hắn ra mặt.

“Điện hạ muốn gặp Thiếu quân cũng chẳng khó. Người ta trốn nàng, trốn được mồng một sao trốn được rằm. Điện hạ chắc hiểu ý ta chứ? Có định làm vậy không?”

Ta đặt chén trà xuống, mỉm cười nhàn nhạt.

Phải, ta đúng là có ý ấy.

15

Mười lăm ngày sau, Yến hội quần tiên.

Yến hội quần tiên tổ chức một lần mỗi trăm năm, tất cả chư tiên từ bậc chân tiên trở lên đều không thể thoái thác.

Tất nhiên, bao gồm cả Tạ Quy Trần.

Ai bảo hắn thiên tư trác tuyệt, năm trăm tuổi đã tu thành Cửu Vĩ, được phong làm chân tiên, giờ càng là nhân vật phi phàm.

Hội yến trăm năm mới có một lần, náo nhiệt vô cùng, tiên nữ múa hát từng tốp từng tốp nối đuôi nhau tiến vào, khiến người ta hoa cả mắt.

Trong yến tiệc, phụ quân ta cười tủm tỉm, ngón tay gõ nhẹ lên bàn, chẳng biết đang nghĩ gì.

Bên cạnh người vây quanh một đám tiên nhân ân cần.

Có nhiều tiên nhân quen, cũng có không quen, đều gọi ta một tiếng điện hạ, nâng chén chào hỏi.

Trong hơi thở, có ánh mắt đang nhìn ta.

Giữa biển người như màn mưa, ta ngẩng mắt nhìn qua.

Nơi đó có một nam tử tựa như ngọc như trăng, y phục trắng muốt, tóc đen như mực, môi mỏng đỏ thắm, thần sắc thanh nhã.

Trên đầu cài ngọc quan chỉnh tề, châu ngọc lấp lánh.

Đôi mắt người ấy cực kỳ xinh đẹp, đuôi mắt có giọt lệ son yêu mị.

Ta thầm nghĩ.

Nhớ về trận đại tuyết năm xưa, lần đầu ta gặp hắn, hắn cũng lạnh lẽo như tuyết kia vậy.

Người ta nói về hắn luôn là những lời cao cao tại thượng, thanh quý kiêu ngạo.

Tựa như trăng nơi chân trời, tựa như tuyết nơi sơn cốc, mỹ ngọc không tì vết, không thể chạm đến.

Thiếu chủ hồ tộc, trữ quân Thanh Khâu.

Nhưng — không phải thế.

Ta biết không phải thế.

Chính vì ta từng thấy, nên ta biết rõ gương mặt thật giấu sau vẻ ngoài ấy.

Vì sao ta không thể xé rách nó ra đây.

Ta bước chậm rãi, chớp mắt đã đứng trước mặt hắn, bất chấp ánh mắt giao hòa của bao người xung quanh.

“Vì sao lại tránh ta, Tạ Quy Trần.”

Ta hỏi thẳng thắn như thế, hắn cũng không thể tiếp tục tránh nữa, chỉ bình thản nhìn ta.

“Thần tưởng rằng, điện hạ không muốn gặp thần.”

Ta chợt bật cười.

“Thiếu quân.”

“Muốn làm một cuộc giao dịch với ta chăng?”

16

Bốn phía dường như lặng đi rất nhiều.

Tạ Quy Trần lặng lẽ nhìn ta, hồi lâu mới khẽ mở môi nói:

“Điện hạ muốn thần làm gì?”

“Ngày ấy chàng tìm ta, đòi bồi thường, ta chưa đáp ứng.”

“Giờ ta có ba chén rượu ở đây, chàng uống hết, ta sẽ trả hết phần bồi thường ấy, thế nào?”

Trong lòng ta tính toán, chờ đợi phản ứng của hắn.

“… Được.”

Hắn vươn tay định cầm lấy chén, nhưng tựa như phát hiện điều gì, tay khựng lại, hàng mi dài khẽ run.

Một lát sau, mới từ tay ta nhận lấy.

Ta mỉm cười nhìn hắn, rượu ấm chảy qua cổ họng, một chén, hai chén…

Tạ Quy Trần muốn bồi thường gì chứ?

Hôm ấy hắn trước điện, lời lẽ chính chính, cầu xin Thiên Đế ban hôn.

Nhưng phụ quân ta tuy ngoài miệng đáp ứng, lại chưa hề công khai với chúng tiên.

Người đang chờ thái độ của ta.

Người đã hai lần lỡ dở hôn sự của ta, lần này, nếu ta không mở lời, người tuyệt đối sẽ không ép ta gả cho ai khác.

Dù ta và Tạ Quy Trần từng là phu thê nơi nhân gian, nhưng với các thần tiên trên trời, điều đó chẳng hề quan trọng.

Đêm trăng ấy, Tạ Quy Trần từng nói,

Để cho mọi người biết, cho vạn tiên đều biết.

Biết rõ mối quan hệ giữa ta và nàng.

… Ba chén.

Ta không biết nụ cười của mình khi ấy trông ra sao, hẳn là chẳng còn giữ được vẻ cao quý kiêu kỳ.

Tiệc vẫn tiếp tục.

Hắn đặt chén xuống, mí mắt rũ xuống, mặt không lộ vẻ say, ánh mắt dán chặt vào ta, lại khẽ nói:

“Điện hạ đã say rồi.”

Được rồi, ta biết mình đã đạt được mục đích.

Ta cố ý dùng giọng đủ để chúng tiên nghe thấy, mở lời, đưa tay về phía hắn:

“Phải, bổn cung say rồi.”

“Thiếu quân, đưa bổn cung hồi cung đi.”

17

Đường về cung không xa, nhưng Tạ Quy Trần bước rất nhanh.

Vừa vào điện, hắn rốt cuộc không gượng được nữa, thân hình mấy lần lảo đảo, hơi thở hỗn loạn.

Hắn lẩm bẩm:

“Thiên Hồng Lộ.”

Ta đỡ lấy hắn, chỉ cảm thấy máu trong người như sôi lên.

Phải rồi, là Thiên Hồng Lộ.

Thiên Hồng Lộ, làm từ thiên hồng thảo ủ nên, là loại rượu rất phổ biến khắp bốn bể.

Nhưng tại Thanh Khâu, loại rượu này lại hiếm khi lưu hành.

Nguyên nhân ít ai biết.

Hồ tộc, vốn là giống loài trọng dục.

Hồ tộc Thanh Khâu sinh tính cao ngạo, không muốn sa đọa, từ nhỏ đã học cách kiềm chế bản năng ấy.

Nhưng hương của thiên hồng thảo lại có thể khơi dậy bản tính bị đè nén đó.

Nói cách khác —

Thiên Hồng Lộ, với hồ tộc, là một loại… xuân dược không thể kháng cự.

“Khó chịu lắm sao?”

Ta nâng mặt hắn lên, nhìn hắn đã rối loạn thần trí, đâu còn vẻ thanh lãnh thường ngày.

“Thế sao còn uống, Tạ Quy Trần.”

“…”

Tạ Quy Trần nhìn ta, men say phủ lên gương mặt thần quân.

Hắn nghiêng đầu cọ nhẹ vào tay ta, hàng mi cụp xuống, như một con hồ ly, theo bản năng cọ cọ làm nũng.

Hắn khẽ nói:

“Bởi vì… thần biết, điện hạ muốn nhìn thấy… bộ dạng này của thần.”

“Thần cũng muốn để điện hạ thấy… để điện hạ hiểu rõ —”

Ta không hiểu:

“Thấy cái gì?”

“Thấy trong mắt thần… là bao nhiêu si mê.”

Thấy trong mắt thần, là bao nhiêu si mê.

Hắn yêu nàng — sâu đậm, từ rất lâu trước kia, đã không thể tự thoát ra được.

Nàng không nhìn rõ, lại nghĩ tình cảm ấy có toan tính.

Sao nàng lại không thể hiểu?

18

Tim ta như lỡ một nhịp, rồi lại đập dồn dập.

Bàn tay bên dưới nóng rực khiến ta giật mình muốn rút về, lại bị đối phương giữ chặt.

“Nhìn ta, A Chiêu, nhìn ta.”

Bốn mắt giao nhau — đôi mắt ấy, đẹp đến mê người.

Giờ đây ánh lên sắc đỏ mê ly vì men say, bất cứ ai nhìn vào cũng sẽ dễ dàng đắm chìm trong đó.

Ta tự hỏi — trong ấy chứa điều gì?

Là nóng bỏng, là khát khao, là dục vọng, là nỗi khát khao sâu tận đáy lòng.

Ngay từ đầu, ta vốn không hiểu.

“Tại sao… lại có thể thích đến vậy?”

Ngày ta gặp chàng nơi nhân gian, ngay khoảnh khắc đầu tiên, chàng đứng dưới cầu hành lang, qua làn mưa mờ ảo, hỏi ta có muốn cùng chàng bỏ trốn.

Khi ấy, ta chỉ là một thiếu nữ phàm trần, lớn lên trong phủ Thượng thư, nửa hiểu nửa ngơ về tình cảm nhân gian.

Gặp được mỹ nhân như thế, ánh mắt nhìn ta tràn đầy yêu thương rõ ràng như vậy, ta sao có thể kháng cự?

Ta chẳng rõ tình cảm của chàng khởi nguồn từ đâu.

Nhưng — giờ tất cả đều không còn quan trọng.

Chàng nghiêng người lại gần, trong khoảnh khắc, trời đất như đảo lộn.

Hơi thở nóng rực vây lấy ta, ta cảm thấy chiếc đuôi cáo mềm mại linh hoạt quấn lấy vòng eo mình.

Khoảng cách giữa ta và chàng chỉ còn một gang tấc.

“Nàng đã hứa với ta rồi, không được nuốt lời, A Chiêu.”

“Đêm nay, để ta ở lại đây.”

19

Năm Thái Sơ thứ ba mươi sáu.

Đó là chuyện còn xa xưa hơn cả bốn trăm năm trước.

Năm ấy, tiểu hồ ly một trăm hai mươi tuổi, đang kiên nhẫn chờ đến ngày hai trăm tuổi hóa hình.

Trong vùng hoang sơn nơi nó ở, có rất nhiều hồ ly giống nó, nhưng nó lại có chút gì đó rất khác.

Phụ thân của nó là con cáo mạnh nhất nơi hoang sơn, che chở vạn vật bốn phương tám cõi.

Nó biết sau này mình cũng sẽ trở thành một con cáo mạnh mẽ như thế.

Nhưng để trở thành cáo mạnh, phải trải qua rất nhiều gian khổ.

Phụ thân kỳ vọng rất lớn vào nó, chẳng bao lâu nữa sẽ bắt đầu dạy nó cách trở thành một trữ quân xứng đáng.

Làm trữ quân rất mệt. Nhưng làm cáo thì lại thong dong tự tại.

Tiểu hồ ly tung tăng chạy nhảy giữa núi rừng, vô cùng tự do.

Không biết đã chạy bao lâu, gió sương dãi nắng, cho đến một ngày, nó gặp một cô nương.

Đó là một đỉnh núi rất cao, mây mù lượn lờ, khắp nơi nở đầy những cành mai rực rỡ.

Trên đỉnh núi có thể nhìn xuống vạn dặm sông núi.

Phụ thân từng nói: Khi lòng mờ mịt, hãy trèo lên nơi cao nhất, nhìn xuống giang sơn của con, nhìn dân chúng của con, như vậy con mới học được trách nhiệm.

Vậy là nó trèo lên.

Trên cao gió rét buốt.

Cô nương ấy rất đẹp, đứng giữa đỉnh núi, tay cầm trường kiếm, thân hình uyển chuyển tựa hạc giữa mây.

Thật đẹp, nó thầm nghĩ.

Từ đó không còn chạy nhảy nữa, ở lại đỉnh núi ấy, ngắm cô nương múa kiếm.

Một ngày nọ, cô nương không múa nữa, vứt kiếm sang một bên, ngồi thụp xuống khóc.

Nó cảm thấy tim mình cũng se thắt, liền chạy lại hỏi nàng vì sao.

Cô nương đôi mắt to tròn nhìn nó đầy kinh ngạc, hồi lâu mới hiểu ra:

“Hóa ra ngươi là con cáo biết nói chuyện à?”

Thì ra, phụ huynh của nàng ra chiến trường, chinh phạt khắp nơi, bốn bể quy phục.

Nhưng nàng luôn sợ — sợ rằng phụ huynh sẽ không trở về nữa.

Nàng cũng muốn như phụ huynh, tung hoành sa trường, nên ngày ngày luyện kiếm.

Nhưng rồi nàng nhận ra, dù kiếm có giỏi thế nào, cũng không thể thay thế phụ huynh, vậy nên nàng khóc.

Tiểu hồ ly nghe xong, cảm đồng vô cùng.

Phụ thân nó cũng thường xuyên chinh chiến bên cạnh vị thần họ Giang kia — chính là Thiên Đế.

Nghĩ vậy, nó lại càng thấy lòng buồn hơn.

Nó biết nàng là ai rồi.