Chương 10 - Nỗi Đau Của Mẹ
Chỉ thấy nàng không lên tiếng, nước mắt đã chảy đầy mặt.
Ngụy tiên sinh đã quay lại kinh, thì dĩ nhiên không thể ở lại núi mãi.
Khi biết người sắp đi, A nương hiếm hoi nằm lỳ trên giường không dậy.
Ta nằm gọn trong lòng nàng, không hỏi khi nào dậy, cũng không hỏi có đi tiễn Ngụy tiên sinh hay không.
Không ngờ, lại là Ngụy tiên sinh đến trước.
Người đứng giữa sân, lớn tiếng hỏi vọng vào nhà.
Ngài hỏi A nương… có nguyện ý theo ngài đi không?
A nương không trả lời, mà sự im lặng đó… đã là câu trả lời.
Không biết Ngụy tiên sinh đợi bao lâu, cho đến khi trời gần tối, A nương mới ra khỏi phòng.
Thế là ta và A nương lại trở về những ngày tháng như trước.
Chỉ có một điều khác biệt duy nhất, túi hương dưới gối của A nương đã được thay bằng cái khác.
10
Lại một mùa tuyết lớn.
A nương ngồi bên cửa sổ thêu túi hương, ta chơi đùa trong sân, đang lăn tuyết nặn người.
Có người gõ cửa, A nương bảo ta ra xem.
Là Ngụy tiên sinh.
“Cha!”
Ta reo to, giọng vang tận đầu ngõ. Ngụy tiên sinh cười đến híp cả mắt, ôm bổng ta lên.
Lúc ấy ta mới phát hiện, ngài đã đứng dậy được rồi.
Ngụy tiên sinh không vội bế ta vào nhà, chỉ đứng lặng tại chỗ.
Ta quay đầu nhìn lại, thấy A nương đang đứng bên cửa sổ cười.
Nàng cười, cười mãi… rồi bật khóc.
Căn viện từng có hai người sống, tĩnh lặng lạ thường,
Giờ có thêm một người, lại như có thêm cả một mái nhà.
Tiếng cười vang khắp sân, không còn đứa trẻ nào gọi ta là “con hoang” nữa.
Bởi vì mọi người đều biết, ta có một người cha thật khỏe mạnh, biết chữ, biết võ, lại tuấn tú vô cùng.
Chúng ta đã cùng nhau trải qua một đoạn đời rất đẹp.
Nhưng có lẽ do thương tích năm xưa trên chiến trường quá nặng,
Ngụy tiên sinh, cuối cùng vẫn ra đi trước A nương.
Những năm tháng ấy, nhờ ta có tước vị Quận chúa, Hoàng thượng trực tiếp ban cả huyện ta đang ở làm phong ấp cho ta.
Hoàng tử, công chúa ở kinh thành gặp ta cũng phải nhường nhịn vài phần, lúc nào cũng giữ vẻ tươi cười.
Ta sống một cuộc đời tốt đẹp vô cùng.
Nhưng ta biết, tất cả những điều đó… đều là nhờ Ngụy tiên sinh.
Ta vẫn quen gọi người là “Ngụy tiên sinh” trong lòng, nhưng ngoài miệng lại gọi là “cha”.
Lúc người sắp đi, đã căn dặn trong cung không được mang người về, người muốn được ở bên A nương.
A nương ngồi bên giường người, mái tóc đã bạc lại thêm bạc.
Người ngoài chẳng bao giờ hiểu nổi, một người cao quý như vậy, sao lại có thể yêu sâu sắc một phụ nữ thân phận thấp hèn đến thế.
Ngay cả ta… cũng không hiểu. Nhưng ta từng hỏi.
Ta còn nhớ rõ, khi nói đến chuyện đó, nét mặt Ngụy tiên sinh rạng rỡ như nắng xuân.
Có thể là năm xưa trong núi, cô gái ấy từng cứu vị lữ khách lạc đường.
Cũng có thể là khi được nàng tận tình chăm sóc, cô gái ấy chưa từng nhìn người bằng ánh mắt khác biệt, khiến trái tim tưởng đã lặng yên suốt nhiều năm ấy… âm thầm dao động.
Hóa ra, A nương từng cứu Ngụy tiên sinh khi người lạc đường trên núi.
Chỉ là khi kể lại chuyện ấy, A nương đã chẳng còn nhớ, năm đó nàng chỉ nghĩ cách làm sao để có cơm ăn.
Ngụy tiên sinh nghe vậy, không hề giận, chỉ ôm nàng thật chặt, không ngừng ôm.
Người đau lòng cho người mình yêu.
Họ sống với nhau như người thân, một năm, hai năm… rất nhiều năm.
Cho đến khi Ngụy tiên sinh không gắng gượng nổi nữa, khép mắt rời đi.
Chẳng bao lâu sau, A nương cũng đi theo.
Căn bệnh ẩn giấu từ thuở thiếu thời như bùng phát trong một đêm.
Người phụ nữ dịu dàng cả một đời ấy… rốt cuộc cũng ra đi, mang theo nụ cười.
Trước khi rời cõi nhân gian, nàng chỉ nói với ta một điều:
Nàng muốn được yên nghỉ dưới gốc liễu trên núi, nơi Ngụy tiên sinh đang ngủ yên.
Ta đã đồng ý.
Cây liễu ấy giờ đã lớn, thân cây cao vượt khỏi tường cao, có thể trông xuống cả thung lũng bên dưới.
Gió thổi qua từng đợt liễu bay phất phơ, như nỗi luyến tiếc không dứt của người còn yêu.
Năm sau, khi ta đến thăm, lại tình cờ phát hiện, bên gốc liễu, đã mọc lên hai mầm cây non.
Gió thổi qua hai nhánh cây khẽ dựa vào nhau.
Giống như khi xưa.
Cha à…
Mẹ à…
Con gái nhớ hai người.
(hết)