Chương 4 - Người Trả Nợ Hoành Thánh

13

Bề ngoài, ta gọi Vãn Nương là “nương”, còn nàng gọi ta là “Châu Châu.”

Nhưng khi không có ai, nàng dạy ta gọi nàng là “Vãn Nương,” còn tự xưng ta là “tiểu thư.”

Người nhà tội thần bị sung quân làm kỹ, sau khi sóng gió qua đi, chỉ cần có đủ bạc, vẫn có thể bỏ tiền chuộc lại.

Vãn Nương liều mạng bán hoành thánh, ngày qua ngày, từng bát một…

Nàng dành dụm từng đồng bạc, cuối cùng cũng gom đủ tiền.

Mang theo hy vọng, nàng tìm đủ mối quan hệ, định đi chuộc mẫu thân và Tống Châu về.

Nhưng nàng ra đi phấn chấn, trở về lại như cái xác không hồn.

Tống Châu, trên đường theo quân, vì vất vả lao lực, đã sớm qua đời.

Mẫu thân, vừa đến doanh trại, không chịu nổi nhục nhã, đã lựa chọn tự vẫn.

Vãn Nương về đến nhà, cả người phát sốt dữ dội, mê man suốt mấy ngày trời.

Tỉnh lại rồi, Vãn Nương lại như không có chuyện gì xảy ra.

Nhưng theo thời gian, ta dần phát hiện—tinh thần của nàng đã không còn minh mẫn như trước.

Nàng bắt đầu không phân biệt được ta và Tống Châu.

Đêm mưa sấm sét, nàng ôm lấy ta, giọng dịu dàng dỗ dành:

“Châu Châu đừng sợ, có nương ở đây rồi.”

Ta rúc vào lòng nàng, im lặng không đáp.

Bởi ta không sợ sấm chớp. Người sợ là Tống Châu.

Vãn Nương… lại nhầm nữa rồi.

Thế nhưng đôi lúc, nàng vẫn vô cùng tỉnh táo.

“Tiểu thư, cô không biết đâu, năm xưa phu nhân từng liều mạng cứu tôi khỏi tay thổ phỉ!”

Vãn Nương ngồi kể với ta, giọng đầy cảm khái:

“Khi ấy tôi đã tự thề, đời này dù làm trâu làm ngựa, cũng phải báo được ân ấy.”

Chỉ là… những lúc nàng tỉnh táo ngày càng ít.

Phần lớn thời gian, nàng sống trong mơ hồ, lẫn lộn quá khứ và hiện tại.

Chỉ đến khoảnh khắc lâm chung, nàng mới thật sự tỉnh lại.

Nàng nhìn chằm chằm lên xà nhà, nước mắt tuôn rơi không ngừng:

“Châu Châu, Châu Châu của nương ơi… Cuối cùng, nương cũng đến để ở bên con rồi…”

Nàng thì thầm, thở dài.

Cho đến phút cuối, trong cổ họng nàng chợt bật ra một tiếng gào thét thê lương đến tê dại lòng người:

“Phu nhân… đại ân đại đức của người, Vãn Nương ta đời này… cuối cùng cũng trả xong rồi!”

Nói dứt câu ấy, nàng khép mắt lại.

Hơi thở tắt lịm.

Ta ngồi chết lặng bên giường, hai bàn tay chống trán, ánh mắt đờ đẫn nhìn mặt đất lạnh.

Những giọt nước mắt to như hạt đậu từng giọt, từng giọt rơi xuống nền đất ẩm, thấm vào bùn, chẳng ai hay.

14

n nghĩa.

Chỉ hai chữ đơn sơ, mà muốn thực hiện… lại khó như lên trời.

Mẫu thân từng cứu Vãn Nương, Vãn Nương chịu ơn mẫu thân.

Tống Châu thay ta chịu tội, ta lại mang theo đại ân của nàng.

Đã nhận ân nghĩa, thì cả đời cũng phải trả.

Ta hiểu rõ, ân tình Tống Châu dành cho ta — ta vĩnh viễn không thể hoàn trả trọn vẹn.

Nghĩ tới nghĩ lui, ta chỉ còn hai con đường để bước.

Nay họ Lưu đã diệt, hung thủ đền tội, vậy thì… chỉ còn một.

Ta mang cái tên Tống Châu, thì nhất định phải khiến cái tên này lưu danh muôn đời.

Từ ngày ta tiếp quản quán hoành thánh, dốc hết tâm huyết, từng bước từng bước đi lên —

chỉ vì điều này.

15

“Ngươi là Tống Châu… hay là Tống Lan Thanh?”

Thấy ta im lặng, hoàng đế lại hỏi lần nữa.

“Trẫm đã cho người đưa những nữ quyến nhà họ Tống còn sống trở về kinh. Trong số đó, có một người tự xưng là cơ thiếp của Tống Thái phó,”

“Bà ấy nói từng tận mắt chứng kiến Vãn Nương trong ngục đổi con ruột để cứu tiểu thư út nhà họ Tống — Tống Lan Thanh.”

“Vậy thì… ngươi—”

“Thần là Tống Châu.”

Ta cắt lời hắn, ngẩng đầu, ánh mắt không hề dao động.

“Có lẽ bà ấy nhớ lầm rồi. Hôm đó quả thật thần có theo mẫu thân vào ngục, nhưng không thể đưa Tống Lan Thanh ra ngoài.”

Hoàng đế nhìn ta thật sâu:

“Vậy sao?”

“Phải.” Ta trả lời dứt khoát.

Hắn khẽ thở dài.

“Trẫm vốn nghĩ, nếu ngươi là cốt nhục của Tống Thái phó, việc tuyên án lại cho Tống gia sẽ thuận lợi hơn nhiều.”

“Nhưng ngươi không phải cũng không sao — trẫm vẫn sẽ minh oan cho Tống Thái phó, ngươi cứ yên tâm.”

Sau khi hoàng đế rời đi, ta lặng lẽ ngồi trong quán hoành thánh, không nói một lời.

________________________________________

Thời Xuân Thu có chuyện “Cô nhi họ Triệu”.

Trình Anh dùng chính con ruột của mình để đổi lấy con của đại phu Triệu Đôn,

ôm đứa trẻ trốn chạy, nuôi dưỡng trưởng thành, cuối cùng giúp nó báo thù Đồ Ngạn Giả.

Thế nhân ca tụng lòng trung nghĩa của Trình Anh, cũng khâm phục bản lĩnh và nhẫn nhịn của cô nhi họ Triệu.

Ta không phải Trình Anh.

Tống Châu cũng không có cơ hội lớn lên thành “Triệu thị cô nhi” thứ hai.

Nàng chết từ ngày hôm đó.

Ta sống tiếp thay nàng.

Chỉ là… chưa từng có ai ca tụng Vãn Nương.

Cũng chưa từng có ai nhớ đến Tống Châu.

Nhưng chẳng ai bận tâm đến đứa con ruột của Trình Anh.

Không ai từng hỏi, liệu nó có tình nguyện hay không — bị cha mẹ đẩy ra ngoài, lấy mạng mình để đổi lấy một món ân tình.

Trong dòng chảy lịch sử, cái tên ấy chỉ như một ngôi sao băng vụt qua rồi biến mất không còn dấu vết.

16

Oan án nhà họ Tống cuối cùng cũng được lật lại,

bài vị của Tống Thái phó được đưa vào Thái Miếu, hưởng hương hỏa ngàn đời.

Ta âm thầm sai người chu cấp cho vị tiểu nương còn sống sót duy nhất của Tống gia năm xưa.

Tống gia… đến giờ, chỉ còn lại một mình bà ấy.

Ta vẫn tiếp tục bán hoành thánh ở kinh thành, bán suốt hai mươi năm.

Tống Châu Hoành Thánh nay đã có bốn, năm chi nhánh khắp kinh thành, hương vị vẫn y nguyên như ngày đầu tiên.

Tiệm mở càng nhiều, người đến cầu thân cũng càng đông.

Nhưng ta từ chối tất cả.

Nữ tử trên đời này, gả rồi thì theo chồng, chồng chết thì theo con — chẳng ngoài khuôn khổ đó.

Nếu ta gả đi, có chồng, thì cái tên “Tống Châu”… sẽ biến thành Tống thị.

Số tiền kiếm được từ việc bán hoành thánh, phần lớn ta đều đem đi cứu tế, giúp người nghèo.

Mỗi khi có nạn đói hay thiên tai, trước cửa Tống Châu Hoành Thánh lại dựng lên một quán cháo từ thiện, phân phát miễn phí cho dân đói khổ.

Kỹ nữ sa cơ trong lầu xanh nha hoàn bị đánh đập, người què người tật, cô nhi quả phụ…

Những năm qua ta cũng chẳng thể nhớ nổi mình đã giúp được bao nhiêu người.

Chỉ khi nghe tiếng người đời khen ngợi “Tống Châu”, lòng ta mới thấy an ổn đôi phần.

________________________________________

Hồi mười bảy

Năm ta ba mươi bảy tuổi, Thành vương đưa cả gia quyến hồi kinh.

Thế tử của Thành vương từ nhỏ lớn lên ở phong địa, quen sống phóng túng, chẳng ai quản thúc.

Ngày nào hắn cũng khoác áo đỏ rực, cưỡi ngựa Hãn Huyết, phi như bay giữa phố lớn kinh thành.

Cho đến một hôm, một chiếc xe ngựa tránh không kịp, đâm thẳng vào quán hoành thánh của ta.

“Rầm” một tiếng, xe ngựa đâm sầm vào gốc cây lớn trong sân, mới miễn cưỡng dừng lại.

Tiếc là, cả xe đã vỡ vụn thành đống đổ nát.

Nghe động, ta lập tức chạy ra, đúng lúc trông thấy Thế tử Thành vương ngồi trên lưng ngựa, cằm hếch lên, sắc mặt tràn đầy khinh miệt.

Gã phu xe vừa chật vật bò ra từ đống đổ nát, hắn đã giơ tay lên, định quất roi xuống:

“Tiện dân ở đâu ra, cũng dám cản đường bổn thế tử?!”

“Dừng tay lại!”

Ta vội vàng chạy đến, chắn trước mặt gã phu xe.

Ngọn roi kia không hề nương tay — “vút” một tiếng xé gió, quất thẳng lên cánh tay trái của ta, da thịt lập tức nứt toạc, máu chảy ròng ròng.

“Tiện dân ở đâu ra!” Thế tử lạnh lùng hừ một tiếng.

Ta cắn chặt răng, đè nén cơn đau, lớn tiếng quát:

“Đây là kinh thành, là dưới chân thiên tử. Thế tử ngươi cưỡi ngựa cuồng loạn, làm liên lụy đến phu xe gây tai nạn. Không chịu bồi thường đã đành, lại còn rút roi đánh người?”

Chưa dứt lời, một roi khác lại vút qua lần này trúng cánh tay phải.

Máu tươi chảy ra, áo ta lập tức nhuộm đỏ.

“Chỉ là một tên tiện dân,” hắn ngẩng cao đầu, vẻ mặt khinh khỉnh,

“bổn thế tử không bồi thường, ngươi thì làm được gì ta?”

“Có bản lĩnh thì đi mà cáo quan!”

“Để xem phủ doãn Kinh Triệu có dám vì một tiện dân như ngươi, mà chỉ mặt mắng bổn vương hay không!”

18

Hắn đã nói đến nước đó, thì ta còn chờ gì nữa?

Hôm sau, ta liền đến phủ Kinh Triệu, gõ trống kêu oan.

Ta gõ trống kêu oan suốt cả buổi sáng, cuối cùng cửa phủ Kinh Triệu cũng mở ra.

Vừa bước vào trong, ta thấy phủ doãn Kinh Triệu đang ngồi trên công đường, mặt mày nhăn nhó như ăn phải khổ qua.

Sau lưng ông ta — là một người khiến ta không thể không nhận ra.

Tạ Tri Học.

Năm nay hắn ba mươi tám tuổi, đã nhập các, kiêm luôn chức Thượng thư bộ Hộ.

Hắn để râu, dáng vẻ trầm ổn mà uy nghi, nhưng khi cười, lại khiến người ta lạnh sống lưng.

“Đại nhân, mau thăng đường đi chứ.”

Tạ Tri Học cười nhạt, vỗ nhẹ vai vị phủ doãn kia.

“Thăng—thăng—thăng đường!”

Phủ doãn run rẩy vỗ mạnh vào mộc bàn:

“Kẻ dưới đường là ai? Báo tên ra!”

“Dân nữ họ Tống, tên Châu.”

Ta không kiêu không nịnh, quỳ xuống ngay giữa đường công.

“Ngươi muốn tố cáo ai?”

“Dân nữ tố cáo Thế tử của Thành vương — ngang nhiên cưỡi ngựa trên phố, gây rối trật tự, lại còn vô cớ hành hung dân thường.”

“Vô lý!”

Phủ doãn đập mạnh xuống bàn, dường như đã hạ quyết tâm:

“Ngươi chỉ là một thứ dân, lại dám vu cáo Thế tử? Quá hoang đường! Người đâu, lôi xuống đánh—”

“Lý đại nhân.”

Tạ Tri Học sắc mặt lạnh như băng, ngắt lời ông ta,

“Ngài chưa hỏi nguyên do, chưa điều tra rõ ràng, đã định phán người ta tội mưu phản? Còn muốn đánh người ngay giữa công đường?”

Không khí trong công đường lập tức căng như dây đàn.

“Ta nào dám quyết? Vậy xin hỏi Thượng thư đại nhân, ngài bảo ta phải làm sao?”

Phủ doãn Kinh Triệu như cá nằm trên thớt, chột dạ mà đành cãi cùn:

“Đó là Thành vương thế tử đấy!”

Thành vương là em ruột duy nhất của đương kim hoàng thượng, còn Thế tử lại là độc đinh duy nhất của Thành vương phủ.

Nếu Thành vương thế tử xảy ra chuyện, Thành vương sao có thể để yên?

Nhưng đúng lúc ấy—

“Thành vương thế tử thì đã sao?”

Một giọng nam trong trẻo, đĩnh đạc vang lên giữa công đường.

Ta ngoảnh đầu lại, thì thấy Tả đô ngự sử đang từ ngoài chậm rãi bước vào.

Người ấy… cũng là người từng ăn hoành thánh ở quán ta.

Năm đó, hắn và Tạ Tri Học cùng vào kinh thi cử, cũng từng ngồi dưới gốc cây trong quán, ăn một bát hoành thánh nóng hổi trong giá rét.

Hắn bước đến bên ta, khẽ cúi người, dịu giọng nói:

“Tống cô nương dạo này vẫn khỏe chứ?”