Chương 12 - Người Mù Tìm Kiếm Tình Yêu
Ta muốn hắn sống, sống trong đôi mắt mù lòa, bị nhà họ Tạ vứt bỏ, cả đời rơi vào bóng tối.
Giống như năm xưa, hắn khiến ta không thể thấy người mình muốn thấy.
Tần Phong đã xử lý bọn thị vệ bên ngoài.
Khi ta xoay người rời đi, giọng Tạ Tùng Chi đã rất yếu: “Chỉ là một tên tử sĩ hèn mọn, hắn thì có gì tốt?”
Ta dừng bước, nhìn tuyết trắng bên ngoài, thản nhiên đáp:
“Ngày sau, khi ngươi chẳng còn thấy cảnh đẹp nhân gian, chẳng còn thấy ánh trăng trời cao…”
“Lúc ấy, ngươi sẽ hiểu, chàng… tốt nhường nào.”
14
Ta men theo lộ trình Giang Tùng để lại, đi khắp trời nam đất bắc suốt bảy năm ròng.
Trạm cuối là Liêu Đông.
Ta vẫn yêu tuyết, khi vạn vật chìm trong tĩnh lặng, dường như luôn có thể nghe được tiếng chàng gọi ta.
Khi tiến vào Thẩm Châu, trời đã ngả tối, ta dừng chân trước một quán trọ.
Tấm biển đề bốn chữ.
Bảy năm qua ta đi qua biết bao thành thị, hầu như nơi nào cũng có một cửa tiệm mang tên này.
Có thể là quán trọ, quán trà, tiệm bánh, tiệm y phục…
Tất cả đều mang cùng một tên:
“Phù thảo tùng sinh.”
Mỗi lần nhìn thấy, ta đều không kìm được bước vào hỏi một câu:
“Ngươi có biết Giang Tùng không?”
Họ sẽ nhìn trâm hoa phù dung trên đầu ta, mỉm cười đưa một gói hạt giống, gọi ta:
“A Phù cô nương.”
Năm đó, khi chàng vì cầu thuốc cho ta, bôn ba khắp chốn giết người, chàng đã lường trước mình không còn tương lai.
Thế nên, chàng giúp rất nhiều bách tính.
Những cửa tiệm ấy, chàng mở để họ mưu sinh.
Cũng là mở cho ta.
Lấy trâm hoa phù dung làm tín vật.
Hễ thấy, họ liền biết, ta là người chàng yêu.
Và sẽ thay chàng nói một câu:
“A Phù cô nương, xin hãy luôn luôn tiến về phía trước.”
Vì thế suốt bảy năm, ta chưa từng dừng lại.
Từ Lĩnh Nam đến Tây Hải, rồi đến Dự Châu, lại bắc thượng tới Thẩm Châu.
Ta gieo hạt giống phù dung khắp cõi trời nam đất bắc.
Giờ đây, Thẩm Châu thành.
Ta bước vào quán trọ kia, bên trong ấm áp như mùa hạ.
Một góc nhà có trồng một cây hoa phù dung, đã nở rộ.
Chủ tiệm bước đến, bảo ta:
“Trời đất Liêu Đông rét buốt, ta phải nhóm than suốt mới giúp nó nở hoa lần đầu tiên.”
Ta đứng lặng hồi lâu, nghẹn ngào hỏi:
“Tiếp theo, ta nên đi đâu?”
Nhiều năm trước, trong đêm gió cuồng thét gào, chàng từng nói, điểm cuối của cuộc hành trình là nơi này.
Vậy nên A Tùng… tiếp theo, ta phải đi đâu?
Chủ tiệm vẫn đưa cho ta một túi hạt giống, mỉm cười đáp:
“Đi đâu cũng được.”
“Tứ phương tám hướng… đều là tự do.”
Cuối cùng ta trở lại Đài Châu, dựa vào ký ức tìm đến tiểu viện từng cùng chàng sống qua.
Tường phủ đầy rêu xanh khóa cũng đã rỉ sét, ta phải xoay mãi mới mở ra được.
Trong sân hoang tàn ngổn ngang, chỉ còn cây phù dung là vẫn tràn đầy sức sống.
Đây là mùa thu thứ bảy từ khi chàng rời đi.
Năm ấy, chính tay chàng trồng cây hoa ấy trong sân.
Giờ đã bảy năm trôi qua hoa lá sum suê, rợp cả bầu trời…
Ta lặng nhìn cây hoa ấy thật lâu, đến khi một giọt lệ rơi xuống tay.
Như bừng tỉnh sau cơn mê, ta rút từ ngực ra bức tuyệt bút chàng để lại suốt bảy năm nay.
Phong thư đã ngả màu, máu chàng vẫn cố chấp thấm nơi đó, tưởng như vĩnh viễn chẳng thể phai.
Bao năm qua ta chẳng dám đọc nó.
Như hy vọng cuối cùng còn sót lại trong cuộc đời, ta men theo lời chàng đi khắp trời nam
đất bắc, tưởng như chỉ cần ta còn trên đường, thì câu chuyện chàng để lại vẫn chưa kết thúc.
Giờ đây, thứ còn lại với ta, chỉ là bức thư này.
Bảy năm trôi qua nét mực đã nhạt nhòa.
Hóa ra chàng chỉ để lại một câu:
“A Phù, trời nam biển bắc, ta sẽ vĩnh viễn ở bên nàng.”
Ta nhớ lại giấc mộng nhiều năm trước, trong vầng ráng chiều phủ đầy trời, chàng đứng đó nhìn ta, cũng nói câu ấy.
Từng có lúc ta nghĩ chàng đã lừa ta.
Nhưng giờ đây, hoa phù dung chàng tặng đã nở khắp trời nam đất bắc.
Từ nay, dù ta đến nơi đâu, cũng sẽ có người nói với ta một câu:
“A Phù cô nương, hoa đã nở rồi.”
Ta rốt cuộc cũng hiểu,Thì ra, chàng… chưa từng thất hứa.