Chương 6 - Người Đàn Bà Không Có Tên
“Ngươi cuối cùng cũng hiểu ra, thì ra ngâm thơ vẽ tranh không chữa được chân liệt cho con ngươi, gảy đàn đánh cờ cũng chẳng đổi nổi thang thuốc cứu mạng?”
Một bà lão đang chờ khám nghe hiểu, khẽ cười khẩy:
“Hóa ra đây chính là vị Lục Thị lang nổi danh khắp kinh thành vì thơ điếu vong đó ư. Lão
thân còn tưởng ngài đa tình đến mực nào, nào ngờ một phu nhân sống sờ sờ, lại không bằng một người đã chết mấy năm.”
Sắc mặt Lục Văn Uyên lúc xanh lúc trắng, môi run rẩy, một chữ cũng không thốt ra được.
Hắn hất mạnh tay áo, quay người bỏ đi trong dáng vẻ chật vật, lúc ra cửa còn suýt bị bậc cửa cao vấp ngã, loạng choạng mấy bước mới đứng vững.
Trong quán dần trở lại yên tĩnh.
Một tiểu học đồ nhỏ giọng hỏi ta:
“Sư phụ, vị vừa rồi… là ngài…”
“Chồng cũ.” Ta đáp gọn ghẽ, quay người ngồi xuống trước án chẩn, đề bút viết đơn thuốc cuối cùng trong ngày.
Ta nói với đám học đồ vây quanh mình:
“Đều nhớ kỹ, y giả phải có ngạo cốt. Chúng ta dựa vào bản lĩnh cứu người, không phải phụ thuộc nhà ai. Thà thanh bần mà hành châm, cũng không cúi mình hầu người.”
8
Mười chín tháng Chạp, là ngày kỵ của Liễu Văn Oanh.
Những năm trước, đó là ngày bận rộn nhất của ta.
Ta phải theo yêu cầu của Lục Văn Uyên, lên Tây Sơn tìm đúng loại lục ngạc mai hắn chỉ
định, cắm vào chiếc bình quan diêu đặt trong Thính Tuyết Các; phải đến Linh Lung Trai ở
thành nam, mua về món bánh mai hoa tô mà Liễu Văn Oanh khi sinh tiền thích nhất; phải ủi
phẳng bộ áo lụa trắng hắn mặc khi tế bái; còn phải chuẩn bị sẵn trà sâm đậm để xua hàn,
dưỡng thân cho hắn sau khi từ nghĩa địa trở về.
Có một năm, hắn còn yêu cầu ta bày đồ tế thành hình cầm sắt, nói rằng:
“Văn Oanh tinh thông âm luật, bày như vậy mới hợp tâm ý nàng.”
Năm ấy, tuyết lớn ngập trời.
Ta quỳ ngồi dưới hành lang ngoài Thính Tuyết Các, đợi hắn tế xong, tuyết phủ đầy vai, gần như thành một người tuyết.
Hắn ở trong các đốt hương gảy đàn, một khúc 《Nhớ cố nhân》 chẳng biết đàn bao nhiêu lần cho đến khuya.
Lúc hắn bước ra, liếc thấy chén trà sâm trong tay ta đã nguội lạnh từ lâu, chỉ cau mày nói một câu:
“Trà nguội rồi, đi đổi chén nóng khác.”
Còn năm nay, ta tự mua cho mình hơn nửa con ngỗng quay béo ngậy, hâm một hồ rượu lê hoa bạch ngọt thanh, trong tiểu viện của mình, đối diện tuyết rơi lả tả, tự rót tự uống.
Vị tự do ấy, ngọt hơn trà sâm gấp trăm lần.
Giờ Hợi, cửa viện lại bị gõ vang.
Lần này đến vẫn là tiểu đồng nhà họ Lục, toàn thân phủ tuyết, môi tím tái vì lạnh.
“Tống đại phu! Xin ngài mau đến xem lão gia với! Ngài… ngài từ mộ Liễu phu nhân trở về thì phát sốt cao, mê sảng không ngừng, miệng cứ gọi… gọi tên tiên phu nhân!”
Ta cách cánh cửa, lạnh nhạt đáp:
“Phong hàn nhập thể, cao nhiệt mê sảng, mời Thái y là được.”
“Thái y cục nói tuyết lớn quá, ban đêm không xuất chẩn! Xin ngài đấy Tống đại phu! Lão gia… lão gia trong lúc mê cũng gọi tên ngài, ngài ấy nói… ‘Thanh Chỉ, châm’… ‘Thanh Chỉ, thang’…”
Trong lòng ta không gợn nổi một tia sóng.
Hắn bệnh mà nhớ đến ta, chẳng qua là nhớ đến y thuật của ta, nhớ đến sự tiện lợi khi ta ở bên điều dưỡng cho hắn.
Ta trầm mặc giây lát, vào phòng cuốn một bó ngải nhung cũ, đưa ra qua khe cửa:
“Cứu huyệt Đại chùy, Phong trì, Khúc trì. Nếu đến sáng mai nhiệt chưa lui, thì đến y quán của ta mà đăng ký.”
“Phu… Tống đại phu!” tiểu đồng ngoài cửa khóc lóc, “Thiếu gia cũng ho ra máu rồi! Trong phủ đã loạn thành một nồi cháo!”
Ta thổi tắt ngọn đèn trong phòng.
Trong bóng tối, tiếng cầu xin của tiểu đồng ngoài cửa dần dần xa mất.
9
Ngày hôm sau, y quán nhận được một phong thư từ Lục phủ gửi tới.
Là bút tích của Lục Văn Uyên, nét chữ nguệch ngoạc, chẳng còn chút nào vẻ thanh tú ngày trước.
Trong thư hắn kể khổ trời tuyết lạnh, hoài niệm ấm áp thuở xưa, nói ngày trước đều do ta nhọc lòng chăm sóc, nay rốt cuộc cũng hiểu được tốt lành của ta, nguyện đem Thính Tuyết Các – nơi hắn từng xem như trân bảo – cải thành y thất, chỉ mong ta quay về.
Đám học đồ vây lại xem, tức tối bất bình: “Sao hắn không biết sớm hơn!”
Ta đem phong thư ấy, đưa lại gần lò than đang sắc thuốc.
Lưỡi lửa “phụt” một tiếng bốc lên, nuốt trọn những lời “hối lỗi” đến muộn.
“Hắn không phải hối vì đã bạc đãi ta,” ta nói với học trò, “mà chỉ hối vì đã đánh mất một nô tài đa năng, lại không tốn một đồng.”
Tết Nguyên Tiêu, phủ Binh bộ Thượng thư mở tiệc mừng thọ năm mươi cho Thượng thư phu nhân, rộng rãi mời khách.
Vì phu nhân thể nhược, phủ đặc biệt mời vài vị danh y trong kinh túc trực ở sảnh bên, ta cũng được mời.
Ta mặc một chiếc áo khoác mới màu hồng hạnh dệt kim tuyến, phối váy mã diện sắc hải đường xanh.
Màu tươi sáng gần như chói mắt, là kiểu ta chưa từng dám mơ mặc khi còn ở Lục phủ.
Đối gương chỉnh trang, Tố Tâm nhìn ta, vành mắt đỏ hoe: “Tiểu thư, hôm nay người đẹp lắm… giống như lúc chưa lấy chồng vậy.”
Giữa tiệc, Thượng thư phu nhân đột nhiên đau thắt ngực, sắc mặt tím tái, khó thở.
Vài vị đại phu có mặt đều bó tay, ta lập tức bước lên, lấy ngân châm châm thẳng vào ba huyệt Nội quan, Đản trung, Tâm du.
Chỉ trong chốc lát, phu nhân liền thở dài một hơi, sắc mặt dịu xuống.
Thượng thư đại nhân mừng rỡ khôn cùng, đích thân cầm chén rượu sang sảnh bên kính ta: “Tống đại phu quả là diệu thủ hồi xuân Chén này, lão phu kính ngươi!”
Ta nâng chén hoàn lễ.
Sau đó lấy cớ ra ngoài hít thở, bước ra hành lang.
Gió đêm lành lạnh, ta đang khẽ kéo chặt áo thì bất ngờ một chiếc áo choàng lông chồn đen còn vương hơi ấm được khoác lên vai.
Ta kinh ngạc quay đầu, sau lưng là một nam tử thân hình cao lớn.
Lông mày như kiếm, mắt sáng như sao, trên mình là võ quan thường phục gọn gàng, bên hông đeo đao nhạn linh, khí thế vững vàng.
“Tần Tiếu,” hắn chắp tay với ta, giọng trầm mà vang: Tại hạ là Lang trung Ty Chức Phòng thuộc Binh bộ. Thấy đại phu áo mỏng, e khí lạnh xâm nhập, mạo muội rồi.”
Ta nhận ra hắn.
Tháng trước, thê tử một vị giáo úy dưới trướng hắn khó sinh, ngôi thai lệch, là ta được mời đến, dùng châm cứu xoay thai, cuối cùng mẹ con đều bình an.