Chương 7 - Năm Nghìn Đồng Đánh Đổi Cuộc Đời

Ông giơ tay định xoa đầu tôi, nhưng tôi nghiêng đầu tránh đi.

Dù ông có hối lỗi thế nào, tôi cũng không tha thứ.

Vết thương ông để lại cho tôi, đến thời gian cũng không xóa được.

“Con bé cứng đầu, ba biết con hận ba.”

“Hôm con đón ba về, ba đoán được rồi — con muốn hành hạ ba.”

“Ba chấp nhận. Ba là đồ khốn, ba đáng bị vậy.”

Ba tôi lôi từ túi quần nhăn nhúm ra một chùm chìa khóa, đưa cho tôi.

“Đây là chìa khóa căn nhà cũ ông bà nội để lại cho ba. Bao năm khốn đốn, ba vẫn giữ nó không bán.”

“Căn nhà này để lại cho con. Trong căn phòng tân hôn của ba với mẹ con, còn có mấy thứ mẹ con để lại cho con.”

Cảnh sát đến. Lần này, ba tôi không chống cự, ngoan ngoãn để họ còng tay.

Số hàng hóa ông lừa được phần lớn chưa kịp bán, đã trả lại hết.

Số tiền ông lừa được, một phần bị tiêu sạch, phần còn lại cũng được thu hồi.

Ông đã 60 tuổi. Với bản án chung thân, khả năng ông còn sống để ra khỏi tù gần như bằng không.

Tôi đến căn nhà cũ của ông bà. Nhà đã mục nát, nhưng căn phòng tân hôn của ba mẹ thì được dọn dẹp rất sạch sẽ — chứng tỏ ông từng quay về.

Trên tường vẫn treo ảnh cưới của họ.

Tấm ảnh đó là thứ duy nhất mẹ tôi giành được khi cưới. Giờ nhìn lại, thấy thật trớ trêu.

Giữa bàn là một cuốn sổ tiết kiệm.

Tôi mở ra, bên trong có 20.000 tệ.

Kẹp chung là một bức thư tuyệt mệnh. Trong thư viết rõ: số tiền này là mẹ tôi dành dụm làm học phí cho tôi.

Vào thời mà lương tháng bình quân chỉ khoảng 400 tệ, lại bị ba tôi quản lý chặt chẽ, mẹ vẫn âm thầm để dành được từng đó.

Mật khẩu sổ tiết kiệm là một bí mật giữa tôi và mẹ.

Đó là một bài đồng dao mẹ hay hát cho tôi nghe — trong đó có một dãy số.

Tôi mang sổ đến ngân hàng.

10

Nhân viên ngân hàng nhận ra ngay cuốn sổ.

“Tháng trước có một người đàn ông đến đòi rút tiền. Không biết mật khẩu, ông ấy quậy loạn cả phòng giao dịch. Bọn em vừa dọa báo công an là ông ta bỏ chạy luôn.”

Tôi biết ngay mà. Ông ta đâu có tử tế gì.

Ông chỉ để lại tiền vì ông không lấy được.

Còn căn nhà ông bà, là đất nông thôn, vốn không thể bán.

Tôi rút 100 tệ từ sổ, đổi thành tiền lẻ.

Tôi lấy 5 tệ, tìm đến dì Tống.

“Dì Tống, đây là số tiền mẹ cháu từng vay dì.”

Dì Tống lập tức dúi cho tôi một túi lớn đầy táo từ sạp của dì.

“Tiền này con cầm về đi. Con đến đây bao nhiêu lần rồi, dì nói rồi, dì không lấy đâu.”

“Nếu dì nhận, trong lòng sẽ áy náy lắm.” Giọng dì bắt đầu nghẹn ngào.

“Đây là tiền của mẹ cháu. Mẹ cháu từng nói: đã vay thì phải trả.”

Nước mắt dì Tống bỗng trào ra.

“Là tiền của mẹ cháu sao?”

“Mẹ cháu lén dành dụm được 20.000 tệ cho cháu. Hôm nay cháu mới lấy được.”

Dì Tống tay run run đón lấy tờ tiền, ôm chặt lấy tôi mà bật khóc.

Hai chúng tôi ôm nhau, khóc nức nở giữa chợ đầu mối ồn ào mà chẳng màng ánh nhìn ai cả.

Khóc đã đời, dì Tống cười, xoa đầu tôi:

“Thục Nghi, dì nghe chuyện con đưa ba con vào tù rồi. Con giỏi lắm, không uổng công mẹ con nuôi dạy.”

“Sau này rảnh thì đến thăm dì nha.”

Tôi tạm biệt dì Tống, rồi ghé qua mộ mẹ, để túi táo dì vừa cho xuống trước mộ bà.

“‘Cho dọn phòng ngủ chính cho ông, mỗi tháng cho ông mười triệu tiền sinh hoạt.’”

“Cho đến…” — Nửa năm sau, trại giam liên hệ bảo tôi đến thăm ba — ông bị ung thư máu cấp tính.

Tôi là người thân trực hệ duy nhất.

Tôi chọn từ chối điều trị.

Ông trăng trối: lúc hỏa táng, đừng để nhà tang lễ mổ xác, hãy để lại toàn thây để ông dễ đầu thai.

Cuối cùng, ông muốn được chôn vào nghĩa trang tổ tiên nhà họ Đồng, để “hồn về cố hương.”

Nửa tháng sau, cảnh sát báo ông không qua khỏi.

Tôi vội đến bệnh viện, nhân lúc ông còn thở, ký vào đơn hiến tạng.

Sau khi lấy hết nội tạng có thể dùng được, tôi đưa ông đi hỏa táng.

Ra khỏi nhà tang lễ, tôi chọn bừa một khu rừng, rải tro ông đi.

Để ông không được yên nghỉ — tôi mới thấy hả lòng.

Hết