Chương 2 - Món Quà Của Hồn Ma

Trải giường xong, A Hương cầm hương nang rời đi, sắc mặt mang theo vài phần trầm ngâm.

Ta chăm chú lắng nghe, tiếng bước chân nàng dần dần xa khuất.

Cuối cùng cũng đuổi được người đi.

Ta vội vàng trở dậy, thay bộ áo vải thô mà khi còn làm nha hoàn vẫn mặc, mở cửa lặng lẽ lẻn ra ngoài.

Đêm xuống, phủ Kỷ gia càng thêm lạnh lẽo, tiêu điều.

Vừa ra khỏi cửa lớn, bỗng từ góc tối có một bóng đen vụt lao ra.

Ta bị dọa, vội đưa tay che miệng, hoảng sợ lùi lại.

Dưới ánh trăng nhàn nhạt, đối phương lộ rõ dung mạo — Chính là vị tiểu hòa thượng ta gặp ban ngày!

Sắc mặt hắn tràn đầy lo lắng, vội vàng đưa tay ra hiệu im lặng, kéo ta nấp vào một bên.

“Nữ thí chủ, rốt cuộc cũng tìm được người.”

Thì ra, sau khi hương gãy, hắn vẫn canh cánh trong lòng, không yên tâm.

Bèn âm thầm bám theo ta và A Hương, lại nấp trong bóng tối chờ đợi, chỉ mong tìm cơ hội nói chuyện với ta thêm lần nữa.

Trên đời lại có kẻ lừa đảo khổ tâm tới mức này sao?

Trong lòng ta càng thêm bất an.

“Đại sư, ta cũng đang muốn tìm ngài. Chuyện ban ngày, có thể phiền ngài nói rõ thêm được chăng?”

Tiểu hòa thượng sắc mặt ngưng trọng.

“Hương gãy là bởi tượng Phật được người sống cung dưỡng, chẳng thể nhận lễ bái từ kẻ âm hồn chưa trọn vẹn.”

“Nữ thí chủ,” hòa thượng thấp giọng nói, “bần tăng thấy ấn đường của người ám đen, hành tẩu bất ổn, thần sắc ngơ ngẩn, chỉ e thiên hồn đã thất tán.”

Quá đỗi vô lễ!

Gần đây tinh thần ta quả thực có phần mệt mỏi.

Nhưng chỉ dựa vào điểm ấy mà nói ta mất hồn, chẳng phải quá hồ đồ sao?

Thấy sắc mặt ta do dự, hòa thượng lại tiếp lời:

“Hương gãy ngay đỉnh, đoạn vết phẳng lì, tuyệt không thể lầm.”

“Giả như chỉ đơn thuần muốn lấy mạng, chẳng cần bày ra nhiều trò như vậy. Nhưng nếu là để mượn xác hoàn hồn, thì ắt phải làm cho hồn phách của người dần dần tiêu tán. Bởi vậy, bần tăng mới cả gan suy đoán như thế.”

“Thí chủ, xin hỏi, trong phủ các người gần đây, có người nào mới quy tiên chăng? Tang lễ ấy, người có tham gia hộ tang, hoặc thay người thủ linh, nâng quan tài chăng?”

Tim ta khẽ giật thót.

Ngày ấy, tiểu thư đột ngột qua đời, lão gia cũng vì đau buồn mà sinh bệnh nặng.

Ta được lão gia thu làm nghĩa nữ, cùng cô gia đồng hành, đưa tang tiểu thư…

Ta do dự đáp:

“Người thân tử nạn, tham dự hộ tang vốn là chuyện thường tình, có gì lạ đâu.”

Nhưng sắc mặt hòa thượng lại càng thêm nghiêm trọng, chân mày nhíu chặt.

“Hộ tang thì còn đỡ. Chỉ sợ…” “Chỉ sợ… đã từng nhảy qua quan tài. Nếu vậy, thì đại họa đã cận kề.”

4

Ngày xuất tang hôm ấy, ta làm theo lời vị pháp sư dặn dò.

Tay cầm kiệu giấy, lưng đeo bọc vải đựng ngân phiếu âm ty, đi vòng quanh quan tài ba lượt.

Sau đó, đem bọc vải đặt vào trong quan tài, cùng với thi thể hạ táng.

Đó chính là “nhảy quan tài”.

Nghe ta kể xong, hòa thượng lập tức sốt ruột hỏi dồn:

“Trong bọc vải kia, ngoài ngân phiếu âm phủ, có tờ giấy nào ghi tên họ không? Ví như dòng chữ ‘người cõng bọc — họ tên nào đó’, thí chủ còn nhớ đã viết tên ai không?”

Ta thoáng sững người, rồi chậm rãi đáp:

“Nhớ chứ. Khi ấy ta còn len lén mở ra xem qua…”

“Đương nhiên là… tên ta. Không phải vậy sao?”

Tiểu hòa thượng nghe vậy, giậm chân thở dài:

“Đương nhiên là không được!”

“Người cõng bọc, vốn là người sống đóng giả âm sai dẫn đường cho vong hồn xuống Hoàng Tuyền, lẽ ra phải viết tên một thân nhân đã khuất trong cùng tộc mới đúng. Sao lại có thể viết tên người còn sống được?”

“Vong hồn chẳng tìm thấy người dẫn lối, không cách nào chuyển sinh. Đến lúc ấy, tất sẽ lần theo danh tự mà tìm tới người đã ghi tên!”

Một trận gió âm lạnh lẽo đột ngột lùa qua sau gáy, khiến ta rùng mình sợ hãi.

Quay đầu nhìn lại, chỉ thấy một con quạ đen từ trên cây vụt bay lên, lao vút vào không trung.

Không xa, đại môn sơn đen của phủ Kỷ gia, tựa như một mãnh thú khổng lồ, há mồm chực nuốt chửng lấy người.

Ta giọng run rẩy: “Chuyện này… chỉ là suy đoán của đại sư thôi, phải không?”

Tiểu hòa thượng thở dài một tiếng.

“Thiên hồn của con người ký thác nơi danh tự. Nay thí chủ đã mất thiên hồn, thân thể trở nên trống rỗng, chỉ còn chờ bị chiếm giữ.”

“Thế gian có câu: ‘Hồng bạch tương sinh, mượn xác hoàn hồn’. Bần tăng cả gan đoán rằng, không lâu nữa quý phủ sẽ có một chuyện hỉ.”

“Nhân chuyện hỉ ấy, người trong bóng tối sẽ dẫn âm linh đến, nhập vào thân thể thí chủ, như thế, kế sách mượn xác hoàn hồn mới viên mãn hoàn toàn.”

“Thí chủ, ngàn vạn lần phải cẩn thận!”

Hôn sự… lẽ nào không phải chuyện hỉ đó sao?

Nghe đến đây, đầu gối ta bủn rủn, suýt nữa khuỵu xuống.

“Đại sư, nếu người đã nhìn thấu việc này, xin từ bi cứu giúp!”

Ta chỉ là một nha hoàn nhỏ bé, lại có khế ước bán thân trong phủ, muốn trốn cũng không dễ.

Hòa thượng vội đỡ lấy ta.

“A di đà Phật, bần tăng sao nỡ khoanh tay đứng nhìn?”

“Chỉ cần phá vỡ kế dẫn hồn nhập thể, chờ qua đủ bốn mươi chín ngày, thiên hồn của thí chủ sẽ tự động quy vị.”

Hắn trầm ngâm một thoáng, rồi nói:

“Muốn dẫn vong hồn nhập thể, tất phải dùng tới vật mà khi còn sống vong linh đó lưu luyến nhất. Chỉ cần khiến kẻ hồn phách khiếm khuyết này mang theo bên mình vật ấy, mới có thể dẫn dắt linh hồn tới.”

“Chỉ cần đem vật ấy đốt đi trong bếp lửa, vong hồn mất đường dẫn, chẳng bao lâu sẽ tiêu tán thành tro bụi.”

Hòa thượng đưa mắt nhìn ta từ trên xuống dưới, cẩn trọng nói:

“Thí chủ không cài trâm, cũng không mang ngọc, đoán chừng vật kia vẫn chưa rơi vào tay người.”

“Xin thí chủ ghi nhớ lời bần tăng, một khi lấy được vật ấy, nhất định phải thiêu hủy trong vòng hai ngày, mới mong thoát khỏi tai kiếp.”

Trong lòng ta chấn động, hy vọng lại nhen lên nơi đáy mắt.

Hòa thượng đưa tiễn ta đến tận cửa, ta cúi đầu bái tạ không thôi.

Chẳng ngờ trong ngôi miếu Thành Hoàng nhỏ bé ấy, lại có bậc cao tăng thần thông như vậy.

“Đại sư, sao trước kia bần nữ chưa từng thấy người qua?”

Hòa thượng thoáng khựng lại, rồi chắp tay niệm Phật:

“Bần tăng du phương bốn biển, chỉ tình cờ ngang qua chốn này, tạm nương náu nơi miếu nhỏ.”

Thì ra là vậy.

Đường trong phủ Kỷ gia quanh co, ngoắt ngoéo, ta rón rén đi men theo từng bước, mãi mới trở về tới phòng mình.

Vừa định đẩy cửa bước vào, khóe mắt bỗng liếc thấy nơi khúc quanh hành lang, có một bóng trắng chợt lóe rồi biến mất.

Ai đó?

Ta lặng lẽ lần bước theo.

Vòng qua hành lang… Bóng người đã không còn.

Két ——

Một cánh cửa hé mở, bị gió đẩy khẽ kêu “két” một tiếng.

Ta theo tiếng nhìn sang.

Đó là… từ đường.

Bên trong tối đen như mực, đưa tay không thấy năm ngón.

Mùi tro hương trộn lẫn với một làn hương thơm mơ hồ kỳ dị, từ khe cửa đen ngòm lặng lẽ tràn ra.

Ta đứng ngẩn ở ngưỡng cửa một lúc, rốt cuộc vẫn không dám bước vào.

Trở lại phòng, vừa thay y phục xong, đang chuẩn bị nằm xuống.

“Đông, đông, đông” — có tiếng gõ cửa vang lên.