Chương 7 - Lời Nguyền Của Làng Ba Con Trai

Tôi biết, với những gì tôi đã làm, tội tôi là không thể tha thứ, và tôi chắc chắn không thể sống. Nhưng khi cả làng đã chết hết, thì ai còn đứng ra “chống lưng” cho họ nữa?

Bọn họ đều đáng phải chết.

Còn tôi, chắc cũng vậy.

Người tôi thấy day dứt nhất, ngoài những bé gái từng bị tôi bán và chính tay chôn vùi, thì chính là Lý Tiểu Bảo – đứa trẻ tôi đã nuôi lớn.

Hôm con bé được đưa ra khỏi gác xép, chạy về phía tôi, cười vui vẻ như thế… nhưng tôi không dám nhìn nó.

Tôi quay mặt đi, nhìn về phía Minh Dương – người chị cùng huyết thống của tôi.

Sau khi khai báo toàn bộ sự thật, tôi nhắc đến thân thế của Tiểu Bảo. Cảnh sát cũng nhanh chóng tìm ra cha mẹ ruột của con bé.

Họ nói với tôi rằng Tiểu Bảo vẫn luôn muốn được gặp tôi một lần. Thế là trước khi bị thi hành án, tôi đã tận miệng nói với con bé rằng:

“Mẹ không phải mẹ ruột của con.”

Nói xong, tôi vội vã rời khỏi nơi ấy như đang trốn chạy.

Tôi từ chối gặp Minh Dương, bởi tôi không biết phải đối diện với chị ấy ra sao.

Tôi chỉ nhờ quản giáo chuyển lời giúp mình.

Ngày thi hành án, trời nắng đẹp. Trong khoảnh khắc đó, tôi như thấy bóng dáng bà ngoại đang mỉm cười nhìn tôi.

08

Tôi tên là Minh Triều. Từ khi có ký ức, tôi đã sống cùng mẹ trong căn gác xép cao vút này.

Mẹ dạy tôi nhận chữ, học y thuật. Trong những câu chuyện của mẹ, tôi ngày càng ao ước được bước ra ngoài thế giới bên ngoài gác xép.

Đó là lần đầu tiên trong đời tôi mở miệng xin mẹ điều gì – tôi muốn ra ngoài.

Nhưng mẹ chỉ ôm chặt lấy tôi, vừa khóc vừa thì thầm xin lỗi hết lần này đến lần khác.

Tôi hỏi lý do, nhưng mẹ không trả lời, chỉ tiếp tục khóc. Không còn cách nào, tôi đành từ bỏ mong muốn ấy.

Từ đó, sức khỏe mẹ tôi ngày một yếu đi. Cho đến một đêm khuya, mẹ gọi tôi đến bên và kể hết mọi bí mật về nơi này.

Thì ra, mẹ và cha tôi đều xuất thân từ gia tộc y học danh giá. Nhưng vì trưởng bối trong nhà đắc tội với kẻ quyền thế, cả dòng họ phải bỏ quê dọn đi nơi khác.

Không ngờ, trên đường dời đi, họ gặp tai nạn. Mẹ và cha tôi thất lạc với gia tộc. Lúc ấy, mẹ cũng sắp sinh nên buộc phải dừng lại tại làng Lý gia – nơi sau này được đổi tên thành Tam Tử Thôn.

Mẹ tôi vừa mới sinh xong, cần thời gian nghỉ ngơi. Cha tôi thấy người dân nơi đây hiền hòa chất phác nên quyết định ở lại tạm một thời gian để dưỡng sức, đợi con lớn hơn một chút rồi sẽ tiếp tục đi về phía Nam tìm người thân.

Cả mẹ và cha tôi đều là thầy thuốc, lại không thiếu tiền bạc nên đã thuê người dân trong làng giúp xây một căn gác xép và một phòng bốc thuốc.

Làng thiếu thầy thuốc, mà cha mẹ tôi thì không chỉ bỏ tiền ra mà còn khám bệnh miễn phí, nên dân làng rất vui mừng khi họ quyết định ở lại.

Nhưng trong một lần mẹ tôi khám bệnh cho một người phụ nữ, phát hiện cô ấy đang mang thai, toàn thân lại đầy vết thương. Mẹ tôi bèn hỏi nguyên nhân.

Người phụ nữ ấy kể, nhà chồng trọng nam khinh nữ. Cô đã sinh ba lần, đều là con gái. Đây là lần mang thai thứ tư, nếu vẫn là con gái thì gia đình chồng sẽ ép ly hôn để cưới vợ mới cho con trai họ.

Mẹ tôi không đành lòng nên muốn đưa cho cô ấy toa thuốc bí truyền của gia đình để có con trai. Nhưng cha tôi lo sẽ gây rắc rối nên không đồng ý. Mẹ tôi đành nhượng bộ, bảo người phụ nữ ấy mỗi ngày đến phòng thuốc uống thuốc, và phải giữ kín chuyện này.

Người phụ nữ đồng ý. Vài tháng sau, cô ấy thực sự sinh được một bé trai.

Mẹ tôi từ chối mọi lời cảm tạ, chỉ dặn duy nhất một điều: phải giữ bí mật.

Nhưng không ngờ mẹ chồng cô ấy vốn đã dẫn con dâu đi khám khắp nơi, ai cũng nói là con gái, nên bà ta đã sớm chọn sẵn vợ mới cho con trai. Nào ngờ cuối cùng lại sinh được con trai.

Dưới áp lực tra hỏi của mẹ chồng, người phụ nữ ấy đã khai ra mẹ tôi.

Từ đó, người tìm đến mẹ tôi để xin bài thuốc sinh con trai ngày càng nhiều. Người dân làng Lý – những người từng giúp xây phòng thuốc và gác xép – thậm chí còn trả lại toàn bộ tiền công, chỉ mong xin được bài thuốc quý kia.

Không còn cách nào khác, mẹ tôi đành đưa ra bài thuốc, nhưng bà cố tình lược bỏ vị thuốc cuối cùng, và dặn rõ: ai muốn dùng thì phải báo bà, bà sẽ tự tay thêm vào vị thuốc đó. Đồng thời, mỗi gia đình chỉ được dùng một lần.

Không còn cách nào khác, mọi người đành đồng ý. Họ cũng cam kết tuyệt đối không tiết lộ cho người ngoài.

Thế nhưng, lòng tham con người là vô đáy. Sau khi sinh được đứa con trai đầu tiên, họ lại muốn đứa thứ hai, rồi đứa thứ ba…

Khi bị mẹ tôi từ chối, họ liền tự ý dùng bài thuốc chưa hoàn chỉnh. Kết quả là các bé trai sinh ra đều yếu ớt, bệnh tật liên miên. Cho đến khi họ phát hiện rằng đứa con trai thứ ba thường khỏe mạnh hơn hai đứa trước.

Thế là, dân làng bắt đầu truyền tai nhau, gia đình nào cũng cố sinh đủ ba đứa con trai.

Mẹ tôi cảnh báo rằng, dùng thuốc bừa bãi chắc chắn sẽ gây hại, nhưng chẳng ai chịu nghe. Bởi vì ở cái ngôi làng lạc hậu ấy, con trai chính là trời.

Lời khuyên của cha mẹ tôi không những không được cảm kích, mà còn bị người trong làng chán ghét. Vì thế, họ quyết định rời khỏi nơi này sớm.

Nhưng dân làng không cho họ đi. Họ sợ “bầu trời” của mình sẽ sinh bệnh, làng cần có bác sĩ.

Chưa kể, bài thuốc sinh con trai của họ bắt đầu được bán ra ngoài, nếu để hai người đó rời đi rồi bán toa thuốc cho người khác, thì dân làng sẽ mất đi “miếng ăn” này.

Nỗi sợ hãi và lo lắng dâng lên, và thế là những người dân “chất phác” ấy đã làm ra chuyện không ai ngờ đến – họ đẩy con trai của hai người thầy thuốc đã khám bệnh miễn phí cho họ xuống sông.

Khi đứa trẻ hấp hối, họ lại ra tay “cứu” nó lên, khiến nó bị ốm nặng, còn kế hoạch rời đi của gia đình tôi thì buộc phải trì hoãn.

Họ tưởng mình làm việc kín đáo, nhưng đâu ngờ rằng trẻ con trong dòng họ tôi đều thông minh sớm, đứa trẻ ấy đã sớm kể lại toàn bộ sự thật. Sau đó, bọn họ còn mặt dày mang danh “ân nhân cứu mạng” đến đòi xin bài thuốc.

Cha mẹ tôi giữ bình tĩnh, âm thầm từ chối, rồi lập kế hoạch đợi trời tối sẽ lặng lẽ đưa con rời khỏi đây.

Nhưng không ngờ, kế hoạch bị lộ. Người tố giác không ai khác lại chính là người phụ nữ đầu tiên được mẹ tôi giúp sinh con trai.

Trong lúc hỗn loạn, cha tôi và anh trai tôi đã bị đánh chết. Chỉ còn lại mẹ tôi sống sót.

Bà đứng trước thi thể chồng con, nhìn đám người hung hãn kia và thốt ra một lời nguyền: