Chương 5 - Lần Quay Về Của Thẩm Trường Ninh
Mà bất hạnh lớn nhất, lại là người ấy thay lòng đổi dạ.
Phương thức báo thù của nữ nhân, hoặc là tìm một nam nhân xuất sắc hơn để khiến bản thân rạng rỡ,
Hoặc là dứt khoát lựa chọn cái chết, một lần kết thúc mọi chuyện.
Rồi người phu quân từng làm nàng đau khổ trăm bề, lại bởi cái chết ấy mà tỉnh ngộ.
Tất sẽ là thống khổ vạn phần, hối hận trăm chiều.
Tựa như đời của nữ tử, nhất định phải gắn với một nam nhân.
Có thể khiến nam nhân động tình, vậy là vinh quang tột bậc.
Nhưng ta lật hết thư tịch kinh sách, cũng chưa từng thấy:
Nam nhân nào lại coi việc gặp một nữ nhân, vì nàng mà sống chết, làm kiêu ngạo cả đời?
Những thoại bản nơi khuê phòng, những “nữ giới”, “nữ huấn” kia,
Đều ca ngợi nữ tử si tình là tiết liệt giai nhân.
Thế nhưng trong những sách thánh hiền nam nhân đọc,
Lại cực lực chê bai loại tình cảm ấy.
Họ cho rằng nam nhân chỉ biết nhi nữ tình trường là “ngực không chí lớn”, “yếu đuối vô năng”, “phường son phấn”.
Thật là vô sỉ đến cực điểm, nực cười đến cùng cực.
Nếu nữ nhân thế gian thật sự tin vào mấy lời ma quỷ do nam nhân bày ra ấy,
Chỉ e rồi cũng chẳng tránh khỏi trở thành nô lệ dưới chân họ, mặc cho họ giẫm đạp chơi đùa.
Ta thu dọn hết cầm kỳ thư họa nơi khuê phòng, cũng đem may vá nấu nướng gác lại phía sau.
Bắt đầu lui tới thư phòng, cầm lấy Tứ thư Ngũ kinh.
Rồi dưới sự chỉ dạy của phụ thân và huynh trưởng, ta học thêm binh pháp, cưỡi ngựa, bắn cung.
Lúc ban đầu cũng có không ít người chỉ trỏ.
Cho rằng nữ nhi học mấy thứ này, thật là trò cười thiên hạ.
Làm gì có tiểu thư thế gia nào lại đi học cái đó?
Nhưng trong lòng ta luôn có một cán cân, một thước đo đúng sai.
Một chuyện, tốt hay xấu,
Không thể chỉ nhìn vào miệng người khác nói gì,
Mà phải xem… chính họ làm thế nào.
Miệng thì chê nữ nhi học Tứ thư Ngũ kinh, binh pháp cưỡi ngựa là nực cười;
Nhưng nếu bản thân thành tựu trong những thứ ấy, lại lấy làm vinh quang.
Miệng thì nói may vá nấu nướng mới là đạo làm vợ hiền mẹ đảm;
Nhưng nếu một nam nhân biểu lộ hứng thú với hai thứ này, nhất định sẽ bị thiên hạ cười chê.
Việc tốt, sẽ không vì người làm là nữ nhân mà trở thành xấu;
Việc xấu, cũng không vì người làm là nữ nhân mà trở nên đúng đắn.
Bọn họ chỉ là đang dùng thủ đoạn này,
Để thuần hóa nữ nhân trở thành dáng vẻ mà họ mong muốn mà thôi.
Tâm tư ấy… đáng giết.
Nếu thật sự tin vào những lời họ vẽ ra,
Vậy thì dù có sống mấy đời, cũng chỉ mãi là nô lệ mà thôi.
?
7
Thẩm gia đã ẩn mình nơi Giang Nam suốt ba năm.
Ba năm ấy, Thẩm gia chỉ làm đúng hai việc:
Việc thứ nhất, là tiêu tán toàn bộ gia tài bạc triệu.
Nhà mẹ đẻ của ta là hoàng thương qua nhiều đời, giàu sang sánh ngang quốc khố.
Ngoại tổ mất sớm, chỉ có mẫu thân là con gái duy nhất.
Tất cả gia sản bạc vạn đều do người kế thừa.
Kiếp trước, một nửa nguyên nhân khiến Thẩm gia bị diệt chính là vì khối tài sản khổng lồ ấy.
Vậy nên ở kiếp này, thay vì chờ hoàng đế xét nhà tịch thu, chi bằng Thẩm gia chủ động hiến tặng toàn bộ.
Hoàng đế hiện thời ngu muội vô đạo, dân chúng lầm than.
Sau khi đến Giang Nam, Thẩm gia chủ động xuất bạc tu sửa thủy lợi, khai thông kênh ngòi, mở trường dạy học.
Thậm chí còn lập vô số thiện đường khắp nơi, chuyên thu nhận hài nhi bị bỏ rơi, lão nhân cô quả, cùng những nữ nhân đáng thương không nơi nương tựa.
Gặp khi hạn hán lũ lụt, Thẩm gia liền mở kho phát chẩn cứu đói.
Chỉ trong mấy năm ngắn ngủi, cái tên Thẩm gia vang khắp đất Giang Nam, không ai không biết.
Bách tính cảm kích vô cùng, chủ động dựng sinh từ thờ cúng người nhà Thẩm gia, xem Thẩm thị là cha mẹ tái sinh.
Dân tị nạn từ khắp nơi ùn ùn kéo về Giang Nam.
Thậm chí có lúc, người ta chỉ biết đến Thẩm gia, mà chẳng ai còn nhớ đến thiên tử.
Danh vọng và uy thế của Thẩm gia đạt đến mức chưa từng có.
Thế nhưng ta lại chẳng hề lo lắng việc sẽ khiến hoàng thất sinh nghi.
Bởi vì tất cả những việc thiện ấy… đều do nữ quyến Thẩm gia ra mặt thực hiện.
Bề ngoài, triều đình tán dương: “tấm lòng Bồ Tát”, “tâm địa nhân hậu”.
Nhưng sau lưng, kẻ người lại cười khẩy, nói rằng: “đó là lòng dạ đàn bà”, “việc nhỏ việc vặt của nữ nhân”.
Thậm chí có không ít người bắt đầu cảm thấy:
Thẩm gia giao ra binh quyền, lại dâng cả gia sản, ắt là dấu hiệu sắp suy tàn.
Con gái nhà Thẩm từ chỗ “trăm nhà cầu hôn”, cũng dần trở nên không ai đoái hoài.
Nếu những chuyện này là do phụ thân hay các huynh trưởng của ta đứng ra làm,
Người đời tất sẽ cho rằng:
Thẩm gia vừa có quyền vừa có của, nay còn tích cực lấy lòng dân tâm, chỉ e có mưu phản.
Cùng một việc, chỉ vì người làm là nam hay nữ, mà thái độ đối xử khác biệt đến mức nực cười.
Nhưng ta tin rằng, trái tim của bách tính là sáng suốt nhất.
Ai mới là người thật lòng vì họ, họ tự khắc phân định rõ ràng.
Việc thứ hai mà Thẩm gia làm trong ba năm ấy, chính là — nuôi quân.
Dĩ nhiên, không thể nuôi một cách công khai.