Chương 4 - Khi Thánh Chỉ Rơi Xuống
Cửa cung lớp lớp, tựa yết hầu của mãnh thú.
Cuối cùng, ta bị ném vào một tẩm điện hẻo lánh.
“Vãn Nguyệt Các.”
Tên nghe thanh nhã.
Bên trong trống trải, chỉ có bàn ghế giường sạp sơ sài.
Hai cung nữ như khúc gỗ theo hầu.
Cửa vừa khép, bên ngoài lập tức có thị vệ mang đao đứng gác.
Giam lỏng.
Trảm Phong không đến nữa.
Nghe nói hắn bận.
Bận củng cố long vị, bận xử lý đống rối rắm tiên hoàng để lại.
Cũng bận ứng phó đám đại thần muốn đưa nữ nhi vào hậu cung.
Tin tức là do Phất Liễu kể lại.
Nàng là người duy nhất trong cung ta có thể mở miệng trò chuyện.
Một tài nhân nhỏ nhoi bị tiên hoàng quên lãng, cũng u sầu như ta.
Gầy yếu, nhỏ bé, song ánh mắt sáng như sao.
Nàng lén lút lẻn vào Vãn Nguyệt Các, thì thầm đem chuyện ngoài cung truyền tới.
“Hôm nay bệ hạ lại nổi trận lôi đình trên triều! Thượng thư bộ Hộ muốn dâng nữ nhi, bệ hạ liền ném cả tấu chương vào mặt ông ta!”
Phất Liễu vỗ ngực thở phào, mặt mày còn nguyên sợ hãi.
“Nghe nói tiểu thư nhà Trấn Quốc công giả vờ ‘tình cờ gặp’ bệ hạ trong ngự hoa viên, còn té vào hồ sen, bệ hạ không liếc lấy một cái, vòng đường khác mà đi!”
“Bệ hạ…” Nàng ghé sát ta, hạ thấp giọng, ánh mắt long lanh như kẻ sắp lật tung bí mật,
“Chẳng lẽ thật sự vì ngươi mà thủ thân như ngọc?”
Ta khẽ chạm vào chậu lan bên bệ cửa sổ — loài hoa duy nhất nơi đây, nửa sống nửa héo.
Không nói một lời.
Thủ thân như ngọc?
Một đế vương ngồi trên vạn lý giang sơn?
Chỉ nghe thôi đã thấy nực cười.
Thế nhưng những lời Phất Liễu kể, từng việc từng chuyện, hết thảy đều hướng đến kết luận hoang đường ấy.
Trảm Phong dùng vương quyền cùng sự bướng bỉnh cố hữu, đối kháng cả một triều cục cũ kỹ.
Chỉ để giữ lấy lời hứa năm xưa nơi đầu làng: “Đợi ta trở về cưới nàng.”
Một góc tim ta như bị kim nhọn đâm vào.
Tê tê, se sắt.
Lại càng thêm hoang mang.
Hắn càng cố chấp, thanh đao mang tên “tru cửu tộc” treo lơ lửng trên đầu ta, lại càng sắc bén nặng nề.
Sinh mạng cha mẹ ta, tính mạng cả thôn, đều treo trên cổ ta.
Hắn vẫn đến.
Trong một đêm mưa phùn lặng lẽ.
Không mang long giá, cũng không người hầu, chỉ mình đơn thân độc mã.
Long bào đã đổi sang thường phục màu huyền, vạt áo bị mưa thấm ướt, dáng người càng thêm cô tịch mà lạnh lẽo.
Mang theo hơi lạnh ướt át cả người.
Hai cung nữ trong điện sợ đến run như cầy sấy, quỳ rạp xuống đất, không dám ngẩng đầu.
Hắn phất tay.
Hai cung nữ như được đại xá, lảo đảo bò ra ngoài, vội vã đóng chặt cửa.
Trong phòng chỉ còn lại hai người chúng ta.
Lửa nến lay động, ánh sáng nhập nhoạng chiếu lên gương mặt hắn, lúc sáng lúc tối.
Trông hắn mỏi mệt đến tột cùng, dưới mắt quầng thâm nặng nề.
“Sống quen chứ?” Hắn lên tiếng, giọng khàn đục.
“Cũng ổn.” Ta nhìn ngọn nến chập chờn. “Thanh tĩnh.”
Hắn bước tới bên bàn, ngồi xuống, rót một chén trà nguội, ngửa đầu uống cạn.
Yết hầu chuyển động.
Im lặng lan khắp không gian trong tiếng mưa rơi rả rích.
“Dao Quang,” hắn đặt chén trà xuống, đầu ngón tay vô thức mân mê miệng chén sần sùi, tựa như từng vuốt ve chuôi búa rèn năm xưa, “ngày đại lễ sắc phong… Khâm Thiên Giám đã chọn được mấy ngày lành, nàng xem thử…”
“Ta không xem.” Ta cắt ngang.
Ngón tay hắn khựng lại nơi vành chén.
Ánh mắt nhướng lên nhìn ta.
Trong mắt sâu như đáy hồ kia, có điều gì đó đang vật vã giãy giụa.
“Nàng rốt cuộc đang cố chấp điều gì?” Giọng hắn trầm hẳn, như giông tố bị đè nén. “Là vinh hoa phú quý? Là mẫu nghi thiên hạ? Hay là…” Yết hầu hắn khẽ động, giọng khàn đi, “trong lòng nàng, đã có người khác?”
Một cơn giận bốc lên trong ta.
Ta túm lấy chén trà không bên cạnh, ném thẳng!
Hắn không tránh.
“Choang!”
Chén sứ vỡ vụn nơi trán hắn.
Một vệt máu mảnh như tơ rỉ xuống, uốn lượn chảy qua gò má.
Đỏ chói mắt.
Hắn không chớp mắt, cứ thế nhìn ta.
Trong ánh nhìn ấy có đau đớn, có phẫn nộ, còn có một loại cố chấp sâu thẳm gần như tuyệt vọng.
“Quăng đủ chưa?” Hắn giơ tay, tùy ý lau đi vệt máu, đầu ngón tay nhuộm đỏ. “Chưa đủ, thì tiếp tục.”
Ta nhìn vết thương nơi trán hắn, nhìn đầu ngón tay dính máu, nhìn ánh mắt đầy thống khổ kia.
Ngọn lửa trong lòng bỗng chốc tắt ngấm.
Chỉ còn lại mệt mỏi và mông lung vô tận.
“Trảm Phong,” giọng ta khàn khàn, “chúng ta… không thể quay lại nữa.”
“Tại sao?” Hắn hỏi, ánh mắt cố chấp như một đứa trẻ.
“Ngươi là hoàng đế rồi!” Ta chỉ vào tòa cung điện vuông vức bốn bề, “Ngươi nhìn nơi này đi, chẳng phải là một chiếc lồng sắt khổng lồ sao? Ngươi nhốt ta trong này, còn hỏi vì sao ta không cam lòng?”
“Ta không nhốt nàng!” Hắn bật dậy, kéo đổ cả ghế, âm thanh chói tai vang lên. “Ta là muốn dâng lên nàng những điều tốt đẹp nhất thiên hạ! Để nàng không bao giờ phải chịu đói, chịu rét, không phải cúi đầu trước ai!”
“Nhưng ta không cần những thứ đó!” Ta cũng đứng bật dậy, giọng cao vút, “Ta chỉ muốn tự do! Muốn một cái sân có nắng! Muốn trồng rau, nuôi gà! Muốn nói điều gì thì nói, không phải nghĩ trước nghĩ sau! Muốn khi nổi giận có thể đập cửa mà đi! Chứ không phải như bây giờ, như một kẻ phạm tội!”