Chương 7 - Khi Không Có Nhà
“Nhà mình bốn người đều mắt hai mí, mũi cao,
sao chỉ có mày mắt một mí, mũi tẹt?
Có khi nào mày là đứa được ba mẹ nhặt ngoài đường về không?”
“Haha, đừng có mơ, vịt xấu xí thì vẫn là vịt xấu xí.
Cút về thành phố của mày đi, nhà tao không hoan nghênh mày đâu.”
Mãi đến khi lên trung học, tôi mới biết diện mạo khác biệt chỉ vì tôi mang gen trội.
Thế nhưng vì trò đùa của họ, cùng với sự dung túng của cha mẹ,
suốt tiểu học tôi sống trong bóng ma nghi ngờ chính thân phận của mình.
“Chiêu Chiêu, con xem, mẹ biết mà, con gái mẹ vẫn thương mẹ nhất.”
Bà vừa lau nước mắt vừa gượng gạo cười với tôi.
“Mẹ, sao con chẳng giống ba mẹ với bọn họ chút nào nhỉ?”
“Đâu có, con giống hệt bà ngoại con mà.
Chuyện hồi nhỏ chỉ là nói đùa, đừng để trong lòng nữa, Chiêu Chiêu.”
Ồ, thì ra là giống bà ngoại.
Vậy phải chăng, mẹ, bởi vì mẹ không thích bà ngoại, nên mới kéo theo không thích cả tôi?
Giá như năm xưa, cô bé bé nhỏ là tôi có thể nghe được câu nói này của mẹ,
thì có lẽ lòng nó đã bớt khổ sở biết bao.
Nụ cười gượng gạo ấy của bà, khi nghe tôi thốt ra hai điều kiện,
lập tức từ thất vọng chuyển thành giận dữ.
“Tôi đã tra rồi, giá nhà khu vực mình giờ hơn năm nghìn một mét vuông.
Ngày trước nhà tái định cư chia mỗi người hai mươi mét.
Mười vạn tệ đưa cho tôi, tôi lập tức ký.
Sau này các người muốn chia sao, đều chẳng liên quan đến tôi.”
“Điều kiện thứ hai, tôi không cần tiền.
Chỉ cần đi cùng tôi, chuyển khẩu của tôi ra khỏi sổ hộ khẩu này.
Để Trịnh Thục Bình và Trịnh Thư Hằng ra tòa công chứng cắt đứt quan hệ chị em với tôi.
Đồng thời, để Trịnh Quân và Trịnh Thư Hằng đăng công khai giấy nhận lỗi này lên vòng bạn bè,
ghim đầu một năm trời.”
Cha con họ vội giật lấy bản giấy trong tay tôi đọc,
chỉ một giây sau, cả hai guilty đến tái mặt, xé nát bản cam kết thành từng mảnh vụn.
“Trịnh Chiêu, à không—Văn Chiêu, mày thật không biết xấu hổ!
Mày tưởng trong này bôi nhọ ai chứ?
Là chính danh dự của mày đấy!”
Mẹ vội nhào tới giành lại tờ giấy:
“Chiêu Chiêu, trong đó viết gì? Hai người các con đã làm chuyện gì mà không để mẹ biết?”
Tôi nhìn thẳng vào mắt mẹ, chẳng thấy lòng được giải thoát,
ngược lại còn kéo lê một cơn đau âm ỉ.
“Mẹ, thôi giả vờ nữa đi.
Mẹ và ông ta cùng chung chăn gối, những chuyện ông ta làm có lỗi với gia đình này, có lỗi với mẹ và con, mẹ chẳng lẽ không biết?
Chỉ là mẹ giả bộ như không, rồi vĩnh viễn chờ con ra mặt thay mẹ.”
“Mẹ, lòng xót xa của con cho mẹ, đến đây là hết.
Hai điều kiện, các người tự chọn.”
11
Nói xong, tôi cầm điện thoại rồi bước thẳng ra cửa.
Nhà có ba phòng ngủ một phòng khách.
Một phòng là phòng chính của ba mẹ.
Một phòng hướng Nam, ánh sáng tốt nhất, dành cho em trai.
Phòng còn lại từng là chỗ tôi ở, từ lâu đã bị sửa thành phòng chơi game kiêm phòng đọc sách của Trịnh Thư Hằng.
Rõ ràng biết tôi sẽ về, nhưng chẳng ai trải giường cho tôi.
Trịnh Thục Bình đứng chặn ở cửa, cuối cùng níu tay tôi, chất vấn:
“Em đòi ba mẹ mười vạn tệ, sao không đi ăn cướp luôn đi?
Chẳng lẽ em không biết ba mẹ không có học, phải chắt chiu từng đồng để nuôi tụi mình ăn học sao?
Họ có thể dành dụm được bao nhiêu chứ?”
Tôi quay mặt ra cửa, không ngoảnh lại, từng chữ dứt khoát, phẫn nộ:
“Họ chắt chiu để nuôi hai người ăn học, chứ không phải tôi.”
Từ nhỏ, để có được sự công nhận của ba mẹ, tôi ra sức học hành.
Chưa từng tốn một đồng học thêm.
Ngay cả giáo viên tiểu học thấy tôi nghèo, tự móc tiền túi lập học bổng riêng:
chỉ cần mỗi môn tôi đạt trên tám mươi điểm là thưởng năm mươi tệ.
Cả cấp hai, cấp ba, học phí của tôi đều nhờ trợ cấp và miễn giảm.
Lên đại học thì nhờ vào vay vốn sinh viên.
Vậy mà mỗi lần đưa tiền cho tôi, mẹ vẫn lải nhải:
“Ba con mẹ con kiếm tiền không dễ, con phải tiêu cho tiết kiệm.”
Tôi đều cam tâm tình nguyện làm theo, thậm chí còn thấy may mắn vì bản thân nhỏ bé không làm ba mẹ tốn kém.
Nhưng rồi tôi biết được, khi Trịnh Thư Hằng học lớp chín học hành bê trễ, chẳng trường công nào nhận,
người mẹ chưa từng tìm nổi đường đi đến trường cấp ba thăm tôi một lần,
lại lặn lội khắp nơi, bỏ ra hai vạn một học kỳ, cho nó vào học trường dân lập.
Khi Trịnh Thục Bình thiếu vài điểm không đủ vào trường đại học hạng hai,
ba tôi cũng dốc hết bốn vạn dành dụm cả năm để chị ta đi học.
Trong khi đó, ông lại khuyên tôi đừng chọn ngôi trường trung học tốt nhất thành phố — nơi miễn học phí.
Đến lúc ấy, tôi mới hiểu mình nực cười đến nhường nào.
Thì ra cái nghèo của gia đình, chỉ là mẹ kéo riêng tôi vào để nghèo.
Tôi biết, mười vạn tệ này có cho tôi, tôi cũng chẳng thấy vui.
Nhưng tôi cố tình muốn làm khó, không để họ được yên ổn.
Giống như bao đứa trẻ Đông Á từng mơ đến cái chết của chính mình để đổi lấy sự hối hận của cha mẹ,
tôi muốn dùng mười vạn này để buộc họ nhìn thẳng vào sự bất công dành cho tôi.