Chương 4 - Cuộc Ly Hôn Có Điều Kiện
4
Sau khi thỏa thuận xong với Hắc Báo, tôi không rời đi ngay.
“Anh Hắc Báo, tôi vừa ly hôn, chưa có chỗ ở. Có thể cho tôi tá túc vài hôm không?” Tôi lên tiếng.
Hắc Báo nhìn tôi một lượt, có lẽ thấy tôi chỉ là phụ nữ, không gây được sóng gió gì, nên thuận miệng bảo tên đầu trọc:
“A Hổ, đưa chị… đại tỷ này qua phòng tây.”
“Cảm ơn.”
Phòng tây rất đơn sơ, chỉ có một chiếc giường gỗ cứng và một cái bàn cũ nát, nhưng ít ra còn sạch sẽ.
Tôi chẳng bận tâm mấy. Kiếp trước còn từng sống trong nhà lụp xụp dột nát, chút khổ này có là gì.
Sáng hôm sau, tôi chào tạm biệt Hắc Báo, theo đúng hẹn đến trước cổng đơn vị của Lục Hướng Đông để đợi anh ta.
Tôi đến lấy năm nghìn đồng của mình.
Vừa qua tám giờ, Lục Hướng Đông lái chiếc xe jeep quân dụng quen thuộc ra.
Xe dừng trước mặt tôi, anh ta bước xuống từ ghế lái, sắc mặt rất khó coi, quầng mắt đen thẫm, hiển nhiên là cả đêm không ngủ.
Thấy tôi, ánh mắt anh ta lóe lên chút phức tạp, rồi rút từ túi ra một phong bì dày cộp đưa cho tôi.
“Tiền đây rồi. Năm nghìn, cô kiểm tra đi.”
Tôi nhận lấy, mở phong bì ra, rút ra xấp “Đại đoàn kết” (tiền mặt mệnh giá lớn) đếm.
Năm mươi tờ, không thiếu một tờ.
“Cảm ơn.” Tôi cất tiền cẩn thận.
“Hôm qua… cô ngủ ở đâu?” Anh ta ngập ngừng hỏi.
“Nhà khách.” Tôi mặt không biến sắc mà nói dối.
Anh ta dường như thở phào nhẹ nhõm, nhưng lông mày vẫn nhíu chặt:
“Về chuyện nhà ở, tôi đã nộp đơn lên rồi, nhưng xét duyệt cần thời gian. Cô…”
“Không sao, tôi đợi được.” Tôi ngắt lời anh ta,
“Thời gian này, tôi cứ ở tạm nhà khách.”
“Phụ nữ một mình ở đó không an toàn,” anh ta gần như buột miệng,
“Hay là… cô cứ về chỗ tôi ở tạm, chờ có nhà rồi hẵng chuyển?”
Nói xong, chính anh ta cũng sững người.
Tôi nhìn anh ta, cảm thấy có chút buồn cười.
“Đoàn trưởng Lục, chúng ta đã ly hôn rồi. Tôi lại về nhà anh ở, là gì? Đợi đồng chí Bạch Nguyệt tới bắt quả tang tôi ‘chiếm ổ chim khách’ sao?”
“Tôi không có ý đó!” Anh ta vội vàng giải thích,
“Tôi với Bạch… chúng tôi còn chưa…”
“Đó là chuyện của anh, không liên quan đến tôi.” Tôi lạnh lùng cắt lời,
“Tiền tôi nhận rồi, có nhà thì báo. Tạm biệt.”
Nói xong, tôi quay người bỏ đi, không cho anh ta cơ hội nói thêm câu nào.
Sau lưng, ánh mắt Lục Hướng Đông như kim châm vào lưng tôi, nhưng tôi không hề dừng bước.
Cầm số tiền này, tôi không gửi vào ngân hàng, mà đi thẳng đến chợ Đông Phong – nơi sầm uất nhất Bắc Kinh.
Năm 1978, làn gió cải cách mới bắt đầu thổi qua kinh tế cá thể vẫn đang trong thời kỳ sơ khai. Phần lớn người dân còn bám chặt vào “bát cơm sắt”, coi việc “làm kinh doanh” là thứ gì đó đáng khinh và gọi là “đầu cơ trục lợi”.
Nhưng tôi biết, chẳng bao lâu nữa, nơi đây sẽ trở thành trung tâm thương mại không chỉ của Bắc Kinh mà còn của cả nước. Tấc đất tấc vàng.
Dựa vào trí nhớ, tôi len lỏi qua khu chợ, cuối cùng dừng lại trước một quầy hàng nhỏ ở góc khuất.
Quầy rất nhỏ, chỉ tầm mười mấy mét vuông, vị trí cũng xấu, gần như chẳng có khách qua lại. Trước cửa treo tấm bảng “Cho thuê mặt bằng kinh doanh”, phủ đầy bụi, rõ ràng đã để lâu mà chẳng ai hỏi đến.
“Ông chủ, chỗ này cho thuê bao nhiêu?” Tôi gọi vào trong một tiếng.
Một người đàn ông trung niên mắt còn ngái ngủ ngồi dậy từ chiếc ghế bố, khó chịu liếc tôi một cái:
“Thuê gì mà thuê, không cho thuê nữa, định bán luôn rồi.”
“Bán?” Tôi thoáng động lòng, “Bán thế nào?”
“Giá chốt, ba nghìn tệ!” Ông ta giơ ba ngón tay, vẻ mặt kiểu “mua thì mua, không mua thì thôi”.
Ba nghìn tệ, vào thời điểm đó đúng là cái giá trên trời. Một căn nhà trong khu tập thể cũng chỉ chừng đó tiền.
Vài người bán hàng rong đi ngang nghe thấy đều lắc đầu ngán ngẩm, cho rằng ông chủ này đúng là tham tiền đến hóa rồ.
“Đắt quá.” Tôi lắc đầu.
“Thấy đắt thì khỏi hỏi!” Ông ta bực dọc phất tay, định nằm xuống ngủ tiếp.
“Hai ngàn năm,” tôi lên tiếng, “trả một lần, tiền mặt.”
Ông ta khựng lại, ngồi thẳng dậy, bắt đầu đánh giá tôi kỹ hơn.
“Cô có từng đó tiền à?” Ông ta nhìn tôi đầy nghi ngờ.
Tôi mỉm cười, rút từ túi ra hai mươi lăm tờ “Đại đoàn kết”, phe phẩy trước mặt ông ta.
Ánh mắt ông ta lập tức sáng rực.
“Giao dịch!” Ông ta gần như nhào tới giật lấy tiền, như thể sợ tôi đổi ý.
Chúng tôi ký hợp đồng mua bán ngay tại chỗ, mời luôn người của ban quản lý chợ làm chứng.
Nhìn tờ giấy chứng nhận sở hữu mặt bằng ghi tên mình, tôi thở phào nhẹ nhõm.
Đây chính là chỗ dựa cho cuộc đời mới của tôi ở kiếp này.
Sau khi mua xong quầy, tôi chưa vội mở cửa buôn bán.
Tôi dành hai ngày để dọn dẹp sạch sẽ bên trong và ngoài sạp, rồi ra chợ đồ cũ tìm mua vài tấm ván rẻ tiền, tự mình cưa đục, đóng thành mấy cái kệ và một quầy thu ngân nhỏ.
Làm xong tất cả những việc đó, trong túi tôi chỉ còn lại hơn hai ngàn tệ.
Chừng ấy tiền, không thể làm ăn lớn.
Nhưng mục tiêu của tôi vốn không phải làm kinh doanh bình thường.
Ngày thứ ba, tôi lên tàu lửa đi về phía nam.
Đích đến của tôi là Dương Thành (Quảng Châu).
Vào thời điểm này, muốn buôn bán quần áo thì nhất định phải đến Dương Thành. Nơi đó gần Hồng Kông, là trung tâm tập kết những mẫu mã và chất liệu thời trang mới nhất.
Tàu lửa xình xịch suốt ba ngày ba đêm mới đến nơi.
Vừa xuống tàu, tôi không nghỉ ngơi mà đi thẳng đến chợ đầu mối quần áo Thập Tam Hành.
Kiếp trước, vì muốn đỡ đần gia đình, tôi từng đến đây nhập hàng về bán vỉa hè. Nhưng lúc đó tôi nhút nhát, lại thiếu kinh nghiệm, bị lừa không ít tiền, cuối cùng trắng tay.
Kiếp này, tôi sẽ không lặp lại sai lầm đó nữa.
Tôi quen đường quen lối, né tránh những quầy chuyên gài người ngoại tỉnh, đi thẳng tới vài xưởng may ẩn sâu trong hẻm nhỏ.
Những xưởng này đều gia công cho phía Hồng Kông, nắm giữ các mẫu mã và chất liệu thời thượng nhất, nhưng do chính sách kiểm soát nên không dám công khai bán ra ngoài.
Tôi tìm đến một xưởng tôi từng có giao tình ở kiếp trước. Chủ xưởng họ Trần.
“Cô em xinh đẹp, mua quần áo à?” Ông Trần ngậm điếu thuốc, nói bằng thứ tiếng phổ thông lơ lớ.
“Không mua.” Tôi lắc đầu, đi thẳng vào vấn đề,
“Tôi đến để bàn chuyện hợp tác với anh.”
“Hợp tác?” Ông Trần ngẩn người, rồi phá lên cười,
“Cô em à, có phải đi nhầm chỗ không? Ở đây chỉ là xưởng may nhỏ, hợp tác gì chứ?”
“Anh Trần, người thông minh không nói vòng vo.”
 Tôi rút từ túi ra một bản vẽ thiết kế, trải lên bàn trước mặt ông,
“Chiếc quần ‘ống loe’ này, xưởng anh làm được không?”
Trên bản vẽ là kiểu quần ống loe tôi tự vẽ lại từ trí nhớ. Trong thời đại mà người ta còn đang mặc toàn xanh lam xám và xanh lục, kiểu quần này thực sự là thứ gây chấn động.
Ông Trần chỉ liếc qua một cái, mắt lập tức sáng lên.
“Cái này… là mẫu mới bên Hồng Kông! Cô sao có bản thiết kế này?”
“Anh khỏi cần biết tôi lấy từ đâu.” Tôi chỉ vào bản vẽ, nói,
“Dùng loại vải jean tốt nhất của xưởng, làm cho tôi một trăm chiếc kiểu này. Giá bao nhiêu? Bao lâu thì giao hàng?”
Ông Trần trầm ngâm một lát, rồi báo giá:
“Mỗi chiếc… tám tệ. Nhanh nhất cũng phải nửa tháng.”
“Đắt quá, mà cũng chậm quá.” Tôi lắc đầu,
“Sáu tệ một chiếc, một trăm chiếc. Ngoài ra tôi đặt thêm một trăm áo kiểu ‘dơi’. Mẫu tôi cũng mang theo. Tổng cộng hai trăm món, mười ngày phải giao. Đây là ba trăm tệ tiền đặt cọc, làm xong tôi thanh toán hết một lần.”
Tôi đặt ngay ba trăm tệ lên bàn.
Ông Trần nhìn chằm chằm số tiền trên bàn, rồi lại nhìn bản thiết kế áo “dơi” tôi mang theo, trong ánh mắt đầy mâu thuẫn giằng co.
Mẫu mã tôi đưa quá thời thượng, chỉ nhìn thôi cũng biết chắc chắn sẽ bán chạy. Nhưng rủi ro cũng rất lớn — nếu bị cho là “trang phục lố lăng” và bị kiểm tra, cả xưởng của ông có thể sụp đổ.
“Sao hả, anh Trần?” Tôi nhận ra sự do dự của ông, bèn châm thêm một ngòi lửa,
“Gan to thì ăn to, gan nhỏ thì chết đói. Nếu lô hàng này bán cháy hàng, xưởng nhỏ của anh sẽ thành nhà máy lớn. Còn nếu anh không dám, tôi đi tìm người khác. Tôi tin rằng, người muốn làm giàu đâu chỉ có mình anh.”
Câu nói ấy đánh trúng điểm yếu của ông Trần.
“Được!” Ông nghiến răng, đập tay xuống bàn,
“Tôi nhận! Mười ngày nữa, cô đến lấy hàng!”
“Hợp tác vui vẻ.” Tôi cười.
Tôi biết, nước cờ này tôi lại đi đúng một bước.
