Chương 3 - Cóc Ghẻ Không Muốn Ăn Thịt Thiên Nga
6
Hách Dụ nổi giận dữ dội.
Anh ấy nói: “Lê Thanh Hà, cô dựa vào đâu mà tự ý quyết định? Cô tưởng cô là ai? Tôi không hứng thú với quá khứ bi thảm của cô!”
Tôi mặc kệ, đẩy anh ấy vào một căn nhà đất tối tăm và cũ kỹ, chỉ vào chiếc giường đất bên trong:
“Hách Dụ, anh đã bao giờ thấy người chết đói chưa? Tôi đã thấy, ngay trên chiếc giường đất này.”
Là ông tôi, một người bị câm và mắc chứng lẫn nhẹ.
Năm ấy hạn hán lại động đất, đường núi bị chặn hoàn toàn, chân ông bị đá đè gãy, trong nhà cũng cạn sạch lương thực.
Ông nhường miếng bánh cuối cùng cho tôi, bảo tôi tự mình trốn thoát.
Tôi trèo đèo lội suối mang đội cứu trợ về thì ông đã tắt thở trên chiếc giường đó.
Tôi chỉ vào mũi Hách Dụ mà mắng:
“Tôi ghét nhất là kẻ lãng phí lương thực! Ngày nào cũng cảnh báo người khác đừng thương hại anh, đừng thích anh! Anh đang tận hưởng những điều kiện tốt nhất, rốt cuộc có gì đáng thương? Anh kiêu ngạo mà tự ti, có gì để người khác thích?”
“Trần Hạ không thích anh, trời sập rồi sao? Cuộc đời anh chỉ còn lại tình cảm thôi sao? Cái dáng vẻ u ám suy sụp của anh, đừng nói là Trần Hạ, ngay cả tôi – con nhỏ quê mùa – cũng chẳng thèm để mắt!”
Lần đầu tiên tôi cảnh cáo anh ấy: “Còn dám lãng phí đồ ăn lần nữa, tôi sẽ dẫn anh đến đây xem cái giường đất này mỗi ngày!”
Hách Dụ bị tôi mắng đến choáng váng.
Sau khi trở về, anh ấy không nói một lời, nghiêm túc ăn cơm, không để sót một hạt nào.
Dì Vương mừng rơi nước mắt, khen lão gia nhà họ Hách thật biết chọn người.
Còn tôi, trằn trọc không ngủ được cả đêm.
Thật ra ngay trên đường về, tôi đã hối hận.
Hối hận vì đã bốc đồng, lớn tiếng mắng mỏ.
Nếu Hách Dụ vì giận mà đuổi tôi về núi, thì mọi điều kiện học tập mà tôi đang có sẽ tan thành mây khói.
Vì thế, sáng hôm sau, tôi đã đến xin lỗi Hách Dụ.
Không ngờ, anh ấy cũng xin lỗi tôi.
Anh ấy nói: “Thanh Hà, những lời em nói đều có lý.”
7
Năm lớp 11, Hách Dụ bắt đầu ngại ngùng khi sai bảo tôi.
Thỉnh thoảng, anh ấy còn cố ý lấy lòng tôi.
Ví dụ như đưa tôi mượn cuốn sách mới mua, hỏi tôi có muốn nghe bản nhạc điện tử mới anh ấy sáng tác.
Ví dụ như giúp tôi chuẩn bị cho các kỳ thi Olympic Toán và Vật lý.
Anh ấy nói với tôi, tôi quá thiên về một môn, tiếng Anh thì không cứu vãn nổi, anh ấy khuyên tôi nên cố gắng giành nhiều huy chương Olympic, để sau này có thể được xét tuyển thẳng, tuyển sinh riêng hoặc hạ điểm chuẩn.
Đã có một khoảng thời gian, tôi và anh ấy rất hòa thuận.
Buổi tối cùng nhau cuộn mình trong thư phòng đọc sách, anh ấy kể cho tôi nghe về những chuyện trong quá khứ.
Anh ấy kể về chiếc trực thăng đã chôn vùi cha mẹ mình, kể về chân phải bị cưa bỏ, chân trái bị tê liệt, kể về mùa hè huy hoàng không bao giờ có thể trở lại.
Để an ủi anh ấy, tôi cũng kể về quá khứ bi thương của mình, kể về việc sau khi ông nội qua đời, tôi đã bới khắp núi để tìm đồ ăn, rồi lén trốn khỏi trại trẻ mồ côi nhiều lần, đem đủ thứ thức ăn đặt lên mộ ông.
Khi nhận được tấm huy chương Olympic đầu tiên, tôi phấn khích ôm lấy Hách Dụ, nói với anh ấy: “Cảm ơn anh, anh thật tốt với em.”
Dì Vương vừa dọn dẹp vừa cười ẩn ý: “Tiểu Dụ đối xử với cô thật là tốt, tối hôm qua bảo tôi mang đồ ăn khuya cho cô, sáng nay lại dặn tôi mua bánh Black Forest cô thích nhất mang về.”
Khi đó tôi đang nửa ngồi bên xe lăn của Hách Dụ, khẽ ôm lấy vai anh ấy.
Khoảng cách rất gần, hơi thở của cả hai có thể nghe thấy.
Lời của dì Vương khiến tim tôi bỗng thấy ấm áp, nhịp tim đập nhanh hơn vài nhịp.
Nhưng cơ thể Hách Dụ bỗng nhiên cứng đờ.
Anh ấy đẩy tôi ra, giọng có chút lạnh nhạt: “Thỉnh thoảng đối tốt với cô chỉ là vì tôi chán, muốn làm chút việc tốt thôi, đừng nghĩ nhiều.”
Tôi lúng túng thu tay ôm anh ấy lại, nụ cười trên mặt cũng cứng đờ: “Tôi chẳng nghĩ gì cả.”
Anh ấy: “Vậy thì tốt.”
Quan hệ giữa tôi và anh ấy lại quay trở về như thuở mới quen.
Vừa quen thuộc, vừa xa lạ, lại mang theo ba phần ngượng ngùng, hai phần khách khí.
Tôi cẩn thận dè dặt, không dám chạm vào anh ấy nữa, sợ anh ấy tức giận, đuổi tôi trở về núi.
Trên núi không có nhiều sách, không có nhiều thiết bị thí nghiệm, không có nhiều bảo tàng, cũng không có nhiều thầy cô giỏi giang.
8
Kỳ nghỉ hè, Trần Hạ trở về.
Trên bàn ăn, cô ấy tuyên bố mình đã chia tay.
Cô ấy kéo tay tôi: “Tiểu Hà à, chăm chỉ học hành nhé, đừng yêu đương làm gì, đàn ông toàn là lũ tồi tệ thôi.”
Tôi liếc nhìn Hách Dụ, giờ anh ấy chắc hẳn phải vui lắm rồi.
Nhưng Hách Dụ chỉ cúi đầu, không biết đang nghĩ gì.
Buổi tối, Trần Hạ rủ đến nhà cô ấy bơi, tôi không có đồ bơi nên chỉ ngồi bên bờ cùng Hách Dụ.
Chúng tôi cùng nhau ngắm Trần Hạ bơi lội uyển chuyển dưới nước.
Đường nét mềm mại, dáng người uyển chuyển.
Như một nàng tiên cá.
Thật đẹp quá, tôi chân thành thầm khen.
Bất chợt nhớ tới bức ảnh Hách Dụ lướt sóng bên bờ biển.
Trần Hạ dường như chẳng bận tâm rằng việc bơi lội trước mặt một người bị mất chân có thể khiến anh ấy bị tổn thương.
Nhưng có lẽ chính vì vậy, Hách Dụ mới cảm thấy mình được đối xử như một người bình thường.
Giống như Dư Hoa đá bóng, để Sử Thiết Sinh làm thủ môn vậy.
Tôi nghĩ, Trần Hạ thật tốt.
Trần Hạ từ dưới nước lên, quấn khăn tắm ngồi xuống cạnh Hách Dụ.
Cô ấy nói: “Tiểu Dụ, còn nhớ hồi lớp ba không? Chính ở đây tớ đã dạy cậu bơi, lúc ấy cậu chẳng dám xuống nước, cuối cùng vẫn bị tớ đẩy xuống.”
Hách Dụ gật đầu, đáp nhẹ: “Nhớ.”
Tôi kiếm cớ rời đi.
Hồi tưởng quá khứ là chuyện riêng tư, tôi đoán Hách Dụ không muốn tôi làm kẻ thừa thãi ở đó.