Chương 9 - Chuyện Hôn Nhân Mà Không Ai Mong Đợi
Ta nhiều lần từ chối, khi thì cứng rắn, khi thì dịu dàng, cuối cùng đều bị hắn hóa giải bằng sự ôn hòa.
Mùa hạ cuối, một trận mưa, lê trong sân đã kết đầy cành.
Tổ mẫu nằm bệnh, bỗng nhiên xuống giường, thần sắc sáng rõ, ngồi trên bậc thềm, ngoắc Tạ Tự lại, hiền từ gọi:
“Tiểu tử nhà họ Tạ, lại đây.”
Tạ Tự bước nhanh, nửa quỳ bên cạnh.
“Quả là tuấn tú.” Bà xoa mặt hắn, cười:
“Ngươi là một lang quân tốt.”
“Bốn năm trước cha nó chết oan trong ngục, A Hành sinh tử chưa biết, ta nằm liệt giường, y lang nói muốn giữ mạng chỉ còn cách tìm lão sâm.”
Giọng bà chậm rãi:
“Một củ sâm ngàn lượng, chẳng khác gì lấy mạng ta. Con bé ta khóc nức nở bên giường, cầu ta nán lại. Lê nương của ta đường cùng, mới tìm tới phủ Bá.”
Ta và A Hành đỏ mắt, quay đi.
Tạ Tự dường như đoán ra bà muốn nói, vội lắc đầu.
Bà cười:
“Đem ân tình đổi chác, là chúng ta sai, ta thẹn lắm. Có lúc ta muốn buông bỏ, nhưng không đành lòng rời cháu gái. Nó chịu quá nhiều khổ, ta hứa bầu bạn, nhưng trong phủ Bá, tiếng nói của nó nhẹ như lông. Chúng ta có lỗi, sao dám đến đó mà hưởng cùng?”
“Không, không phải.” Tạ Tự nghẹn ngào:
“Là ta bất hiếu, sớm nên đón người vào.”
“Ta không trách ngươi, Tạ lang quân. Phủ Tấn Ninh vốn nhân hậu, ngươi lại là quân tử. Nhưng đời người vốn dĩ nhiều ngang trái. Củ sâm giữ mạng ta bốn năm, cũng khiến ta và Lê nương xa cách bốn năm mới đoàn viên.”
Bà dịu dàng:
“Như hôn sự của hai đứa, ý nguyện chẳng thành, duyên phận đứt đoạn.”
“Vợ chồng một hồi, song tình nông duyên cạn, có phận mà chẳng có duyên.”
Bà xoa đầu hắn, giọng nhẹ:
“Biển đời mênh mông, hãy buông nhau một đoạn.”
Tạ Tự cúi thấp đầu, bờ vai run rẩy, nước mắt rơi lặng lẽ.
Gió nổi lên.
Tổ mẫu nhìn vườn lê, mỉm cười:
“Tiếc thay, chẳng kịp ăn lê năm nay.”
22
Lần cuối ta gặp Tạ Tự là vào đầu thu, mùa lê chín, sau khi ta cùng A Hành lo xong tang sự cho tổ mẫu.
Xe ngựa đi đến Trường đình ngoài thành, A Hành ghì cương nói:
“Á tỷ, phía trước đình tiễn khách có Tạ đại nhân.”
Ta vén rèm xuống xe, trong đình Tạ Tự đứng thẳng, tay chắp sau lưng, một thân trường bào lam gấm, lưng thắt đai bạc, áo thêu ám văn mây hạc, phong tư tuấn nhã như ngọc.
Áo ấy, đường thêu mây hạc kia, đều do chính tay ta từng may thêu.
Trong đình hương trà lượn tỏa, ta và hắn ngồi đối diện. Hắn rót cho ta một chén, mỉm cười hỏi:
“Lần này là muốn đi đâu?”
Ta cúi đầu nhấp trà, hương lan thoang thoảng:
“Thục Châu”
Không khí lặng im một hồi, mãi sau hắn mới nói:
“Thục Châu à, đất trời phì nhiêu, là nơi thiên phủ, quả thực là chốn tốt lành.”
Ta chỉ khẽ cười.
“…Lê nương.” Hắn cúi đầu, giọng trầm thấp chậm rãi, “Có đôi khi ta nửa đêm bừng tỉnh, hối hận, đau đớn.”
“Ta thường nghĩ, giá như đêm tân hôn ta dịu dàng với nàng, giá như năm ấy nàng cầu được theo ta đi外放, ta chịu đưa nàng theo… Nàng tâm tư tinh tế như thế, nếu ta chịu buông thành kiến, có lẽ đã chẳng đến kết cục hôm nay.”
“Chuyện qua rồi.” Ta mỉm cười:
“Phủ Bá rất tốt, chàng cũng rất tốt, chỉ là… không hợp với ta.”
“Phải.” Tạ Tự cười nhạt:
“Chim rồi cũng phải bay cao.”
Hắn đứng dậy, lấy trà thay rượu, ôn hòa:
“Ngàn dặm phía trước, nàng hãy tự bảo trọng.”
Ta cùng hắn đối ẩm:
“Dù cách chân trời, vẫn như kề bên, xin chàng giữ gìn.”
Xe ngựa lại lăn bánh.
Ta ngoái nhìn, bóng dáng Tạ Tự nơi cửa thành dần nhỏ đi, cuối cùng biến mất nơi tầm mắt.
Ngẩng đầu, trời xanh sáng sủa, gió thu mát lành.
Yến tước đã bay về phương Nam.
Hậu ký
MC: “Xin chào quý vị, hoan nghênh đến với chuyên mục Họa Thiên Niên. Hôm nay chúng ta mời đến Giáo sư Dư của Đại học Yên Kinh, cùng tái ngắm thế giới trong tranh của Thẩm Lê.”
Giáo sư: “Đều là bạn cũ, không cần giới thiệu nhiều.”
MC: “Giáo sư, nghe nói bức ‘Nhất Chi Tuyết’ mới khai quật đã được xác nhận là chân tích của Thẩm Lê?”
Giáo sư: Qua nhiều ngành hợp tác thẩm định, dù bức tranh này không đề khoản hay ấn chương, nhưng từ bút pháp, bố cục, cách dùng màu, đều chứng thực là tác phẩm thời kỳ đầu của Thẩm Lê.”
MC: “Việc này gây xôn xao dư luận, không chỉ vì Thẩm Lê nay được gọi là ‘đỉnh lưu’, mà còn vì ‘Nhất Chi Tuyết’ lại được tìm thấy trong phần mộ đại thần Tạ Thành Quân thời Hoàn triều. Dù chính sử hay dã sử, đều có ghi chép hôn duyên giữa hai người.”
Giáo sư: “Phải nói, bức họa được giữ gìn quá tốt, chắc hẳn sinh thời chủ nhân vô cùng trân quý.”
MC: “Cả đời Tạ Thành Quân thăng trầm, quan đến chức Thủ phụ, duy chỉ hôn nhân lận đận. Sau khi hòa ly với Thẩm Lê, nghe nói cả đời không cưới thêm.”
Giáo sư: “Chính sử về hôn nhân của ông chép rất ít, nhưng có thể chắc rằng ông không con, về sau mới nhận một đứa từ tông chi làm nghĩa tử.”
MC: “Chuyện tình oán hận ấy đến nay vẫn còn người say sưa bàn tán. Không ít người tiếc nuối, rằng nếu hôn sự kéo dài, hẳn đã là giai thoại cầm sắt hòa ca.”
Giáo sư: “Nhưng e khi ấy, Thẩm Lê sẽ chẳng có danh tiếng ngày nay. Nghệ thuật bà đạt được, không chỉ vì tranh mang thần vận xuất trần, mà còn vì hành trình trải khắp sơn xuyên, mây nước, mở ra dòng tranh thủy mặc điền viên.”
“Bà lấy thân phận nữ tử mà bổ khuyết khoảng trống lịch sử, hiện lên hình tượng người phụ nữ thanh nhã khoáng đạt. Về sau bà tín Phật, tranh vẽ thường có thiền ý, thông đạt thiên cơ, khiến đời sau văn nhân phụ nữ đều tìm trong đó cảnh giới lý tưởng. Người đời không chỉ yêu tranh Thẩm Lê, mà còn yêu nhân cách bà.”
MC: “Đúng vậy, nếu chung thân với Tạ Thành Quân, bà chỉ là một phu nhân vô danh trong sử sách, đâu còn Thẩm Lê.”
“Có thuyết nói, so với sơn thủy, bà càng yêu vẽ lê, nhưng về sau ít xuất hiện. Bức này có thể chứng minh không?”
Giáo sư: “Quả thật, Thẩm Lê rất thích vẽ lê, thường thấy ở giai đoạn đầu, tranh còn non, chứa nhiều u buồn, song sắc màu trong trẻo, ý cảnh đã thấp thoáng thần vận hậu kỳ. Ta cho rằng, thời ấy bà bị giam trong khuê viện, tầm nhìn cũng hạn chế.”
“Đến hậu kỳ, bà vẫn vẽ lê, chỉ là giữa muôn bức sơn thủy điền viên, không còn nổi bật. Cuối đời, cháu gái bà gom hết tranh lê, biên tập thành tập, chính tay bà đề chữ.”
“Thẩm Lê một đời phong phú rực rỡ, thọ tám mươi tuổi, là điều hiếm có ở thời đó. Tương truyền bức họa cuối cùng của bà cũng là lê, cháu gái phát hiện, thấy lê trắng rụng khắp người, bà nắm bút, an nhiên ngủ dưới tàng lê.”
MC: “Tập tranh ấy, Thẩm Lê đề chữ gì?”
Giáo sư: “‘Sầu lắng đông lan nhất chi tuyết, nhân sinh minh bạch mấy phần trong.’ Tập mang tên ‘Nhất Chi Tuyết’.”
(Toàn văn hoàn)