Chương 16 - Chồng Tôi Lại Mang Về Một Cô Gái Thời Hiện Đại
Không biết năm xưa là bị dọa sợ hay vì cớ gì, đứa trẻ ấy thật sự coi ta là mẫu thân.
Đó là cốt nhục của Tạ Dụng và Tiểu Nhung.
Biết bao lần nghĩ đến cái chết của phụ thân mẫu thân, ta từng muốn đưa nó đi xa.
Nhưng mỗi lần nhìn thấy nó khóc òa gọi “mẫu thân”, lòng ta lại mềm xuống.
Thôi vậy, cứ nuôi đi.
Ta cũng đâu phải con ruột của phụ thân.
Huống chi, trẻ thơ thì có tội tình gì?
Ta tính đợi đến khi nó trưởng thành rồi sẽ để nó rời đi.
Khi Thịnh nhi đã mười mấy tuổi, vị đại tướng quân kia dây dưa với ta nhiều năm, rốt cuộc cũng không moi được nửa điểm tin tức về hỏa dược, đành bỏ đi.
Phưởng Châu đổi sang một vị huyện lệnh mới.
Nghe nói từng ra trận ở phía Tây.
Sau khi biết ta là thê tử của Viên Thiệu, hắn chủ động tìm đến.
Hắn giao vào tay ta một miếng ngọc và một chiếc hộp.
30
“Đây là thứ tướng quân Viên Thiệu trước lúc lâm chung dặn ta mang giao cho phu nhân.”
“Ngài… quen biết chàng sao?”
Giọng ta run rẩy không che giấu được.
Hắn gật đầu: “Ta là phó tướng của tướng quân. Ngày ấy, khi nghe tin Phưởng Châu xảy ra
chiến sự, tướng quân hoảng loạn không yên, đến mức lúc giao chiến bị địch từ phía sau
dùng trường thương xuyên thẳng qua người.
Khi ta xông tới, tướng quân chỉ còn lại một hơi thở. Đây là vật chàng giao cho ta trước lúc mất.”
Ta nắm chặt miếng ngọc còn chưa được mài giũa và chiếc hộp kia, khóc đến không thành tiếng.
“Tướng quân dặn rằng, nếu ta còn sống, nhất định phải giao những thứ này cho phu nhân. Chỉ là những năm qua ta liên tục bị điều đi các nơi… nên mới chậm trễ.”
“Hắn còn nói…”
“Chàng… còn nói gì nữa?”
“Hắn nói, mong phu nhân cải giá, nhưng tuyệt đối không được gả cho Tạ Dụng. Trong chiếc hộp này là những bức thư chàng viết cho phu nhân, còn chưa kịp gửi đi…”
……
Biểu ca…Ta chờ chàng bao năm như thế, Vẫn là… chẳng đợi được người trở lại.
Ta nắm chặt miếng ngọc bội trong tay, lặng lẽ đứng trước linh vị biểu ca, chẳng biết đã qua bao lâu.
Từng bức thư biểu ca viết, ta cẩn thận mở ra, nét mực đã phai, giấy cũng úa vàng giòn mục, thế nhưng trong mắt ta, vẫn là trân bảo vô giá.
Ban ngày, ta kê mình bên song cửa, đọc từng chữ từng hàng.
Đêm về thanh vắng, ta châm ngọn đèn dầu cô quạnh, trong ánh sáng mờ nhạt, lật qua lật lại đọc mãi không thôi.
Đọc đến đôi mắt sưng đỏ tựa trái đào khô, đọc đến khi chẳng còn buồn ngủ, chỉ mở mắt chong chong suốt đêm đến tận bình minh.
Mỗi một bức thư… Biểu ca đều nói rằng, chàng rất nhớ ta.
“Thục nhi, ta yêu nàng. Bao lần tỉnh mộng giữa đêm, đều muốn bỏ hết mọi sự, phi ngựa hồi kinh chỉ để ôm nàng một cái, phu nhân của ta.”
“Thục nhi, thường ngày đừng cố gắng mạnh mẽ làm gì, chẳng phải còn có biểu ca sao? Văn không xong, biểu ca còn có thể dùng võ.”
“Thục nhi, nghe tin Phưởng Châu xảy ra chuyện, ta hồn phi phách tán, lập tức muốn mặc giáp hồi hương tìm nàng.
Nhưng tên phó tướng chết tiệt lại sống chết ngăn ta, hắn nói, biên quan còn hai mươi vạn quân sĩ chờ ta chỉ huy.
Hắn nói… bọn họ cũng như ta, có nhà mà chẳng thể về!”
“Thục nhi, hãy ráng chờ ta thêm một chút… một chút nữa thôi… ta sẽ trở về. Nhất định phải bảo trọng, chớ quên nơi phương xa, có một người như ta, ngày ngày đêm đêm, khắc khoải nhớ nàng.”
……
Ta nghiền ngẫm từng câu từng chữ của biểu ca, nước mắt thi nhau tuôn xuống, rơi trên trang giấy úa vàng, loang ra từng vệt nhòe thẫm.
31
Năm tháng nối tiếp năm tháng.
Ta vẫn cô độc trông coi cái xưởng dệt ấy.
Vẫn kiên trì mỗi ngày viết ra nỗi tưởng niệm biểu ca.
Mỗi năm, ta cũng cử vài nữ công xuống phương Nam học hỏi.
Trải qua giao hòa, lụa là dệt ra càng thêm khác biệt.
Thậm chí còn mở thêm mấy phân xưởng ở các châu huyện khác, mở rộng quy mô.
Mấy châu lân cận nhờ vậy cũng lần lượt khởi nghiệp xưởng vải.
Giờ đây, không còn là phương Bắc đến phương Nam học, mà là phương Nam lên phương Bắc cầu kiến.
Cái gọi là “nhất phu nhất thê” theo năm tháng cũng dần bị người đời quên lãng.
Ta nhắc đến, mọi người chỉ cười.
Nam nhân ấy à… Nếu có thể có hai người, sao lại cam tâm chỉ có một?
Thịnh nhi đối với việc buôn bán trong nhà vốn không hứng thú.
Sau khi biết mình không phải cốt nhục, nó cũng chẳng nói gì.
Từng hỏi ta về truyền thuyết hỏa dược, ta chỉ cười.
Nó chẳng hỏi được điều gì, rồi nhập ngũ.
Chuyến đi ấy lại mười năm chẳng về.
Ta chưa đến ngũ tuần, thân thể đã dần mỏi mệt.
Bèn chọn mấy đứa con nuôi có đức hạnh, giao từng phần việc trong nhà cho họ.
Mấy năm nữa trôi qua ngày ngày ta nằm nghiêng nơi tiểu viện, nhớ về những chuyện xưa cũ.
Thịnh nhi trở về.
Nó trấn thủ biên cương nhiều năm, nói rằng đã tìm được hài cốt phụ thân ngày trước, đã nghĩ cách đưa về.
Ta nhìn nó mà nở nụ cười.
Thịnh nhi… lại thật sự biết ta muốn gì.
Ta ôm lấy chiếc hộp đồng, ôm ngọc bội còn dang dở, ôm những bức thư đã sờn rách… nằm trong cỗ quan tài gỗ đỏ.
Hài cốt biểu ca cũng ở trong ấy, chỉ còn lại một nắm tro tàn lẫn chút đất vàng…
Còn phương thuốc hỏa dược kia, Tiểu Nhung đã thì thầm vào tai ta trước lúc chết.
Nàng nói: “Ta đem phương thuốc ấy kể cho tỷ tỷ, xem tỷ có vì thế mà sinh lòng tham chăng? Lòng người đều hướng về lợi. Nếu biết được ngần ấy kỳ trân dị bảo, tỷ sẽ làm gì?”
Thứ ấy… ta vẫn giữ kín trong lòng. Chưa từng để ai biết.
Còn lời nàng than — xe ngựa quá chậm…
Chậm thì chậm. Vốn dĩ cái đẹp trên đời, chẳng kéo dài được lâu, sao lại cứ đòi phải nhanh?
Xe ngựa chậm, mới đủ thời gian để ta thương nhớ một người đến tận cùng.
Ta khẽ nghiêng đầu, ngắm nhìn nắm đất vàng bên cạnh.
Một giọt lệ lặng lẽ lăn xuống nơi khóe mắt.
Biểu ca… cuối cùng, ta cũng đã đợi được chàng rồi.
(Toàn văn hoàn)