Chương 1 - Chiếc Vali Bí Ẩn
Khi cảnh sát đến nơi, nhà vệ sinh nữ đã trống rỗng, không một ai.
Tôi chợt nhớ đến người lao công đi lướt qua mình, và chiếc vali đủ lớn để chứa một người.
Tôi cùng cảnh sát kiểm tra lại camera giám sát của trung tâm thương mại.
Trong đoạn video, người lao công đó bịt kín mặt bằng khẩu trang và đội mũ, che chắn rất kỹ.
Ra khỏi trung tâm, bà ta lập tức rẽ vào một con đường nhỏ không có camera, rồi biến mất không dấu vết.
Phía trung tâm xác nhận tất cả nhân viên vệ sinh đang có mặt làm việc.
Hoàn toàn không có người lao công nào như thế cả.
Tôi đập đầu vào tường, gào khóc trong tuyệt vọng.
Nếu lúc đó tôi chịu nhìn thêm một chút, nếu tôi gọi cô ta lại…
Mỗi một chữ “nếu” đều như một mũi kim, khiến tim tôi đau đến nghẹt thở.
Cảnh sát an ủi tôi rằng, có lẽ đây chỉ là một vụ bắt cóc thông thường, kẻ bắt cóc sẽ sớm liên lạc với gia đình.
Nhưng mãi mãi chẳng có tin tức gì cả.
Hai năm, hơn bảy trăm ngày đêm, tôi đi khắp vô số thị trấn và làng mạc xa lạ trong nước.
Thậm chí còn đến tận Đông Nam Á để tìm bạn gái của mình – Lê Hạ.
Tôi dán tờ rơi tìm người trên những con phố ẩm ướt, nóng bức, dùng tay mô tả gương mặt cô ấy cho từng người địa phương không cùng ngôn ngữ.
Nhưng Lê Hạ như thể bốc hơi khỏi nhân gian, không chút tung tích.
2
“Thật sự có người lao công như vậy sao?”
“Theo tôi được biết, trong giai đoạn điều tra ban đầu, anh mới là nghi phạm đầu tiên của cảnh sát.”
Người nói là Vương Khải, một chuyên gia tư vấn tâm lý. Câu hỏi của anh ta luôn chạm đúng vào điểm yếu nhất.
Tôi hơi điều chỉnh tư thế ngồi, không phủ nhận:
“Trong điều tra các vụ mất tích, người bạn đời luôn là đối tượng bị thẩm tra đầu tiên.”
“Họ đã kiểm tra tình hình kinh doanh nhà hàng của tôi, kiểm tra cả mối quan hệ giữa tôi và Lê Hạ.”
Tôi gượng cười chua chát:
“Họ nghi ngờ tôi vì tiền mà giết người, hoặc do tình cảm thay đổi.”
“Kết quả thì sao? Dòng tiền của nhà hàng tôi hoàn toàn ổn định, tôi yêu Lê Hạ hơn bất cứ thứ gì. Còn hợp đồng bảo hiểm trông có vẻ đáng ngờ kia là do cô ấy chủ động mua, người thụ hưởng cũng là cả hai chúng tôi.”
“Ừm, kết quả điều tra cho thấy anh hoàn toàn trong sạch.” – Vương Khải ghi chép lại.
“Lê Hạ lớn lên trong cô nhi viện, mối quan hệ xã hội rất đơn giản.”
“Vậy người cải trang thành lao công ấy, tại sao lại bắt cóc cô ấy?”
Rơi vào nỗi ký ức đau đớn, tôi đưa tay lau mặt, cổ họng nghẹn lại:
“Tôi không biết, có thể là buôn bán nội tạng, cũng có thể là buôn phụ nữ.”
Vương Khải cúi đầu ghi chép.
“Xin lỗi anh Lưu, tôi không cố ý khơi lại vết thương, đây là quy trình cần thiết.”
Tôi gật đầu, giọng khàn đặc:
“Cô ấy mất tích tròn hai năm, giấy chứng tử của tòa án mới được gửi đến tuần trước.”
“Nhưng dù cầm tờ giấy đó trên tay, tôi vẫn… không thể tin nổi.”
Tôi siết chặt nắm tay:
“Hai năm nay, không một ngày nào tôi không nghĩ đến cô ấy.”
“Tôi thà rằng cô ấy bị bắt cóc, ít nhất… vẫn còn cơ hội sống.”
Hối hận trào dâng như thủy triều, tôi đấm mạnh vào đầu mình.
“Khi đó, Lê Hạ chỉ cách tôi một lớp vỏ vali, lẽ ra tôi có thể cứu được cô ấy.”
Vương Khải không để ý đến cảm xúc của tôi, chỉ bình tĩnh dẫn dắt:
“Anh Lưu, hãy cố gắng thả lỏng, nhớ lại chiếc vali đó… Tiếng bánh xe của nó như thế nào? Điều đó có thể giúp anh đối diện với ký ức bị đè nén.”
Tôi bứt tóc, cố gắng nhớ lại:
“Đã quá lâu rồi, thật sự không nhớ nổi.”
“Thử nhớ xem.”
Vương Khải đặt bút xuống:
“Đôi khi, những chi tiết ta tưởng đã quên, thật ra vẫn ẩn sâu trong ký ức.”
Tôi nhắm mắt lại, chau mày:
“Hình như… là tiếng lách cách, như tiếng tàu hỏa chạy trên đường ray.”
Ánh mắt anh ta lướt qua nền gạch bóng loáng của văn phòng, giọng nhẹ nhàng:
“Tôi hiểu anh đang ở trong thời kỳ rất khó khăn, không chỉ chịu đựng nỗi đau mất đi người yêu, mà còn phải đối mặt với sự nghi ngờ của người khác.”
“Cuộc trò chuyện ở đây là an toàn.”
Tôi thở dài một hơi.
“Vậy chúng ta bắt đầu bằng vài ký ức nhẹ nhàng hơn, được không?”
Vương Khải hỏi khẽ:
“Kể tôi nghe, anh và Lê Hạ quen nhau thế nào?”
Tôi nhắm mắt lại, để ký ức đưa mình trở về buổi chiều hôm ấy.
3
“Tôi kinh doanh vài chuỗi nhà hàng.”
Tôi mở mắt, ánh nhìn vượt qua Vương Khải, dừng lại ở kệ sách đối diện.
“Thỉnh thoảng, bếp sau sẽ còn thừa lại ít nguyên liệu vẫn còn tốt, bỏ đi thì phí.”
“Tôi liền liên hệ với vài cô nhi viện trong vùng, định kỳ quyên tặng.”
“Rất tốt bụng đấy.” – Vương Khải nói.
“Không hẳn là vì tốt bụng.”
Tôi phản bác theo bản năng:
“Cũng có yếu tố kinh doanh, vừa được khấu trừ thuế, lại có thể quảng bá hình ảnh.”
Vương Khải mỉm cười:
“Xét việc, không xét lòng. Xét lòng thì chẳng ai hoàn hảo.”
Tôi ngập ngừng: “Lê Hạ cũng từng nói tôi quá thực tế.”
Sau này, không chỉ tặng đồ, tôi còn thường đến đó làm công tác xã hội.
Lần đầu tiên gặp Lê Hạ là ở góc tường phía sau sân của cô nhi viện.
Cô ấy quay lưng về phía tôi, ngồi xổm dưới đất, dáng người gầy gò, mặc một chiếc váy xanh đã bạc màu vì giặt nhiều.
Cô đang cầm trong tay một ít thức ăn cho mèo, cho một con mèo tam thể gầy trơ xương.
Con mèo rất cảnh giác, muốn ăn nhưng không dám lại gần.
Động tác của cô ấy vô cùng kiên nhẫn, giọng nói dịu dàng:
“Đừng sợ, lại đây, ăn đi…”
Tôi bước đến, ngồi xuống bên cạnh, cố không phát ra tiếng.
“Nó hơi sợ người, mấy đứa nhỏ trong viện hay đuổi theo nó.”
Cô quay đầu nhìn tôi, ánh mắt trong trẻo, mang theo nụ cười nhẹ.
“Tôi biết, nên nó chỉ dám đến vào giờ này. Tôi lén cho nó ăn được mấy hôm rồi.”
Ánh nắng chiếu lên gò má cô, thấy rõ từng giọt mồ hôi nhỏ trên chóp mũi.
Khuôn mặt cô không nổi bật, làn da không trắng, ngũ quan bình thường, nhưng khi ghép lại thì lại toát lên một vẻ đẹp thuần khiết.
Tôi cầm một ít thức ăn trong tay cô, thử đưa cho con mèo.
“Tôi cũng nuôi một con mèo, một con béo ú giống Ragdoll.”
“Thật sao?”
Đôi mắt cô cong lên:
“Vậy chắc nó hạnh phúc lắm.”
Hôm ấy, chúng tôi cùng nhau nhìn con mèo tam thể kia dần dần hạ phòng bị, ăn hết chỗ thức ăn trong tay.
Chúng tôi cùng nhau chuyển những đồ quyên tặng vào kho.
Cô làm việc rất gọn gàng, khi phân phát đồ đạc, nhớ rõ tên tuổi và sở thích của từng đứa trẻ.
Ngón tay cô thon dài, khi sắp xếp đồ, thỉnh thoảng để lộ một vết sẹo mờ trên mu bàn tay.
Về sau, tôi đến cô nhi viện ngày càng thường xuyên hơn.
Giữa lúc kiểm kê hàng trong kho, khi phát cơm trưa trong nhà ăn, hay những lần cùng cho mèo ăn ở sân sau… chúng tôi nói chuyện ngắt quãng nhưng thân thiết dần.
Tôi biết cô lớn lên tại chính cô nhi viện này, sau học ngành sư phạm mầm non, rồi quay lại làm việc, coi nơi ấy như ngôi nhà duy nhất của mình.
4
Có lần, chúng tôi vừa dọn xong một đợt quần áo cũ, cùng ngồi nghỉ trên bậc đá ở sân sau.
Hoàng hôn kéo bóng chúng tôi dài ra.
Cô ôm gối, nhìn đám trẻ đang nô đùa đằng xa, khẽ nói:
“Hồi nhỏ, điều sợ nhất là tan học, nhìn những đứa khác được ba mẹ đón về. Khi đó chỉ ước gì mình cũng có một người thân.”
Tim tôi như bị ai bóp chặt.
Gần như buột miệng, tôi gọi:
“Lê Hạ.”
Tôi quay đầu lại, nhìn cô chăm chú:
“Từ nay tôi sẽ là người thân của em.”
“Những gì người khác có, em cũng sẽ có. Phần thiếu thốn đó, tôi sẽ bù lại cho em từng chút một.”
Cô ngẩn ra, nhìn tôi sững sờ, đôi mắt đỏ hoe, vai khẽ run.
Một lúc sau, cô mới khẽ khàng “ừ” một tiếng, giọng nghèn nghẹn.
Tình cảm của chúng tôi tiến triển rất nhanh.
Cô thường đến giúp tôi kiểm hàng sau khi nhà hàng đóng cửa, đeo chiếc tạp dề nhỏ trong bếp.
Còn tôi thì mang đồ ăn khuya nóng hổi đến cô nhi viện, cùng cô ăn trong ca trực đêm.
Khi đó, nhà hàng tôi vừa nhận được một hợp đồng lớn, nếu làm xong sẽ lời không ít.
Tôi đã lên kế hoạch cho tương lai, thậm chí còn lén chọn kiểu nhẫn đính hôn.
Nếu không có vụ mất tích đột ngột ấy, tôi đã sắp đưa cô về quê gặp bố mẹ tôi năm đó rồi.
Chúng tôi sẽ kết hôn, có một mái nhà thuộc về riêng mình.