Chương 7 - Cá Mặn Vương Phi Của Tiêu Thừa Cảnh
“Ồ?” — Vương Tế tửu bên cạnh vuốt râu dài, chậm rãi nói — “Nghe nói thế tử ở nơi trắc phi, tiến bộ rất nhanh?
Không học thánh hiền, chẳng luyện lễ nghi, Chỉ biết chơi đùa, lại có thể mở trí khai tâm?”
Câu nói này, đao giấu trong lời.
Ý ngầm: ngươi theo lối tạp học, cũng xứng luận chuyện giáo hóa?
Ta hít sâu một hơi. Liều mạng.
Cá mặn bị ép đến đường cùng… cũng biết nhảy tường!
“Tấu Tế tửu đại nhân,” — ta ngẩng đầu, cố gắng đối diện (dù chân còn run) —
“Thế tử niên kỷ còn nhỏ, tâm trí chưa khai.
Thánh hiền thư uyên áo, lễ nghĩa khuôn vàng, cưỡng ép nhồi nhét, Chẳng khác gì dội cả thùng nước lên chồi non, Không những vô ích, còn có hại.”
Ba vị lão nhân đồng thời nhíu mày.
“Vậy theo ý trắc phi,” — Trương Học sĩ cười lạnh — “Nên để mặc trẻ con nghịch ngợm, phung phí thời gian?”
“Không phải vậy.” — ta lấy ra cuốn sách vải sờn cũ, mở ra đặt trên án.
“Đạo khai trí, trọng ở chữ ‘thú’.
Hứng thú khơi nguồn, kim thạch cũng mở.”
Ta chỉ vào hình con kê lớn vẽ nguệch ngoạc, cạnh đó là chữ “kê” xiêu vẹo.
“Trong mắt trẻ thơ, gà là sinh vật quen thuộc trong viện, Tiếng gáy vang, lông cánh rực rỡ.
Trước nhận hình, nghe âm, sau đối chữ ‘kê’, Liên kết âm thanh – hình ảnh – chữ viết, Tự nhiên thâm nhập vào tâm.
Còn hơn gấp trăm lần việc học thuộc ‘kê, tri thời súc dã’.”
Ta lại lật sang trang có kiến đang tha mảnh cơm, bên cạnh là hai chữ “đa”, “thiểu”.
“Ngắm kiến hợp sức tha lương, hỏi trẻ: kiến nhiều? Thức ít?
Kiến ít? Thức nhiều?
Khái niệm ‘nhiều – ít’, trong lúc chơi mà lĩnh hội.
Đây chẳng phải đùa giỡn, Mà là khởi đầu của ‘cách vật trí tri’.”
Điện đường tĩnh mịch. Chỉ còn tiếng tim ta đập như trống.
Ba vị đại nho, ánh mắt đều dừng lại trên quyển sách vải mộc mạc, xấu xí của ta.
Ánh mắt ban sơ vốn đầy khinh mạn, khinh thường, Lại dần dần… hóa thành trầm ngưng?
Lý Thái phó cầm quyển bố thư, Ngón tay khô gầy vuốt qua những hình vẽ và chữ viết trẻ thơ kia.
“Đây là… vật thế tử từng học?”
“Vâng.” — ta khẽ gật đầu — “Thuở đầu, thế tử cũng chỉ biết vẽ loạn, xé giấy.
Song từ vật thân cận nhập môn, từ giản vào phức, từ hình mà thông ý, thuận theo thứ tự.
Đến nay, thường chữ đã nhận trăm chữ trở lên, đạo lý đời thường cũng hiểu được phần nào.”
Vương Tế tửu trầm ngâm: “Không dạy 《Tam tự kinh》, 《Thiên tự văn》 ư?”
“Có dạy.” — ta đáp — “Nhưng chẳng đọc rập khuôn. Thế tử hiếu động, khó ngồi yên.
Thiếp đem văn nghĩa dung nhập vào trò chơi: Dựng cát làm núi, chỉ dạy chữ ‘sơn’; Gom nước thành ao, chỉ dạy hình ‘thuỷ’;
Diễn kịch ‘Dung tứ tuế, năng nhượng lê’, dạy đạo khiêm nhường. Sách là vật chết, người là vật sống.”
Trương Học sĩ nhíu mày cũng dãn ra đôi phần: “Là ‘tùy tài thi giáo’?”
“Chính thị!” — ta vội vàng thuận theo — “Trẻ nhỏ thiên tính chẳng đồng.
Thế tử hiếu động, ham tò mò, nếu ép vào thư án, chỉ khiến phản nghịch.
Thuận theo bản tính, dẫn dắt hứng thú, gieo mầm tri thức trong trò chơi.
Đợi đến khi tâm trí trưởng thành, căn cơ đã vững, Lại truyền đạo Thánh hiền, ắt hiệu quả gấp bội, thuận nước đẩy thuyền.”
Ta nói một mạch, Miệng khô lưỡi khát, Sau lưng ướt đẫm.
Điện đường lại lặng ngắt.
Ba vị đại nhân trao đổi ánh mắt cùng nhau.
Trong đó đã chẳng còn khước từ ban sơ, Mà có thêm thẩm xét, suy tư, thậm chí… thoáng một tia… đồng tình?
Lý Thái phó buông bố thư, thở dài một hơi.
Nhìn ta, trong mắt đã mang chút ôn hòa.
“Lời Thẩm trắc phi, tuy mộc mạc đơn sơ, Song… trúng vào trọng tâm thời cuộc.”
“Trẻ nhỏ khai trí, quả chẳng thể nóng lòng bứt mầm, Nên vững gốc, dưỡng hứng thú trước đã.”
Vương Tế tửu cũng vuốt râu gật đầu:
“Dạy trong vui, thuận theo tính… Lão phu thấy khí tượng thế tử dạo gần đây, đích thực khác xưa.
Hoạt bát mà chẳng mất thông tuệ hồn nhiên mà dần hiểu chuyện.
Phương pháp này… có lẽ nên thử nghiệm nhiều hơn.”
Trương Học sĩ không lên tiếng, Nhưng sắc diện cũng hòa hoãn không ít.
Ra khỏi tả điện Văn Hoa. Nắng đầu hạ chiếu rọi trên thân. Ấm áp vô cùng.
Ta lại cảm giác như vừa từ nước lôi lên, Hai chân mềm nhũn.
Trên xe ngựa hồi vương phủ, Ta dựa vào vách xe, nhắm mắt.
Trong đầu vẫn hiện lên ánh mắt sâu thẳm khó dò của ba vị đại nhân kia.
Trời biết ta làm sao mà sống sót rời khỏi đó.
Về đến tiểu viện cá mặn, Khải Minh như quả pháo nhỏ bắn tới.
“Nương nương!”
Hắn ôm chặt lấy chân ta, ngẩng khuôn mặt nhỏ: “Hoàng bá bá… hung dữ sao?”
Ta ngẩn ra.
Sao hắn biết ta đi gặp hoàng đế?
Trương mụ mụ cười đáp: “Người vừa vào cung, thế tử liền bồn chồn chẳng yên, Cứ lẩm bẩm ‘nương nương sợ sệt’, lại nói nơi hoàng bá bá có ‘mấy lão gia hung dữ’…”
Lòng ta chợt ấm. Ngồi xuống, véo má hắn mềm mềm.
“Không sợ. Các lão gia ấy… hết hung rồi.”
“Thật sao?”
“Thật.” — ta bế hắn lên, chỉ vào cây thạch lựu trong viện đang kết trái non.
“Ngươi xem, lúc lựu khai hoa, đỏ rực một góc trời, đẹp không?”
“Đẹp ạ!” — Khải Minh gật đầu lia lịa.
“Nhưng giờ kết quả, xanh lè, cứng ngắc, xấu xí đúng không?”
Khải Minh nhíu mày nhìn trái xanh gật đầu.
“Nhưng đến mùa thu,” — ta mỉm cười — “Nó sẽ đỏ au, ngọt ngào, bên trong toàn là hạt như ngọc.”
“Các lão gia cũng như cây thạch lựu.
Trong đầu chứa đầy học vấn, lúc đầu trông nghiêm khắc, khó gần.
Nhưng nếu ta chịu hiểu, sẽ phát hiện bên trong toàn là… báu vật ngọt lành.”
Khải Minh ngơ ngác chớp mắt.
“Báu vật?”
“Ừ, báu vật.” — ta hôn nhẹ lên trán hắn.
Phong ba “giảng bài tại Văn Hoa điện”, Không ngờ lại truyền ra theo cách quỷ dị như thế.
Nghe đâu… Ba vị đại nho sau khi hồi phủ, Đóng cửa nghiên cứu mấy ngày.
Rồi thì…