Chương 2 - Bà Già Mù Và Oán Linh Trong Tháp
Một người điên đột nhiên xuất hiện, lẩm bẩm rằng bé gái này là quý nhân của làng, không được xâm phạm, đưa đến bên tháp làm người gác làng, ngày ngày dâng cơm, mới giữ được sự bình yên, khôi phục như thường.
Cha mẹ tôi không đồng ý.
Họ cho rằng tôi lớn lên có thể bán được giá, hoặc gả cho trai làng để sinh con nối dõi.
Nhưng tôi khóc suốt trong nhà, không chịu ăn cơm cũng không uống sữa, ngày càng gầy yếu.
Bất đắc dĩ, đành đưa tôi đến cạnh tháp, quả nhiên tôi không khóc nữa, bắt đầu chịu ăn.
Ngày thứ hai sau khi đưa đến tháp, có sản phụ sinh được con gái, những người khác trong làng cũng khỏe lại, làm ruộng có sức.
Cả làng bắt đầu tràn đầy sức sống.
Tôi không khóc không nháo, lớn đến một tuổi rưỡi, tay cầm gậy nhỏ, bước chân ngắn gõ cửa từng nhà.
Giọng nói ngọng nghịu bảo họ mang gì, lúc nào đi, đi thế nào.
Họ nói tôi là tiểu thần nữ, đến cứu cả làng.
Họ đáp lại rất nhiệt tình, còn ngồi xổm xuống hỏi kỹ tôi tình hình cụ thể, nụ cười rạng rỡ trên mặt.
Lúc bảy tuổi, tôi bị mù.
Họ vô cùng hối hận, cảm thấy áy náy, đến ngày đều muốn chủ động đến, không cần tôi nhắc, nhưng bị tôi từ chối.
Vì đó là trình tự nghi lễ, nên đến ngày cả nhà họ đều đứng trước cửa chờ tôi, sau khi tôi nhắc thì tích cực chuẩn bị.
Mười lăm tuổi, mọi người đã quen quy trình, truyền miệng nhau, tôi chỉ cần nói một câu “đến ngày rồi” là xong.
Họ tưởng tôi bị điếc, nên người nào đồng ý sẽ gõ hai cái vào gậy gỗ.
Nhưng lúc này, họ đã không còn đứng trước cửa đợi, thái độ cũng chẳng còn nhiệt tình.
Ba mươi tuổi, ai cũng gọi tôi là bà già mù.
Tôi gõ cửa từng nhà, trong trăm hộ chỉ có hơn chục nhà miễn cưỡng đáp lại, miệng toàn lời than phiền.
Tôi không trách móc gì.
Năm nay là năm cuối cùng.
Nếu cả làng đều đến, sau nghi lễ, từ đó làng sẽ không còn oán linh.
Nhưng nếu không đến cũng không sao, năm cuối cùng, dù bị trì hoãn, chỉ cần giữ đúng nghi lễ, bù phần thiếu trước cuối năm, hoàn tất trước cuối năm là được, tháp sẽ không làm hại cả làng, có thể yên tâm rời đi.
Ngày rằm tháng Bảy.
Nhờ sự an ủi của tôi, bên trong tháp yên ổn, không có động tĩnh.
Tuy không nhìn thấy, nhưng tôi nghe ra được, đồ họ chuẩn bị không đủ, người đến cũng lác đác.
Chỉ có vài nhà.
Tôi mím môi, không nói gì.
Bắt đầu chuẩn bị nghi lễ, thắp hương, thông báo.
Nhưng khi thắp hương lại phát hiện, que hương đưa cho tôi là loại nhỏ, còn bị bẻ làm đôi.
Hiếm khi tôi nổi giận.
Tôi ném thẳng nắm hương trong tay xuống đất: “Quá quắt!”
“Hương bị bẻ gãy, lại còn là loại nhỏ, làm sao đủ cho thứ bên trong dùng! Các người không muốn sống nữa à?”
Mỗi dịp rằm tháng Bảy, bên trong tháp đều náo loạn không yên, chỉ có đốt thật nhiều giấy tiền, hương lớn, nhà vàng mới có thể an ủi.
Hương, phải là hương đại, mỗi nhà một cây.
Cắm vào lư hương, làn khói dày đặc bao phủ tòa tháp, có thể trấn an thần linh trong tháp, cũng có thể xua tan âm khí bám trên người dân làng.
Nếu không tham gia, âm khí một năm không được xua sạch, rất dễ mắc bệnh hư hàn.
Chữa thì không thể khỏi.
Nghĩ là năm cuối cùng rồi, thiếu thì thiếu, cùng lắm tôi tự ra ngoài mua về bù vào chỗ trống.
Nhưng làm cẩu thả như vậy, chọc giận bên trong, đến tôi cũng khó lòng xoa dịu.
Thấy tôi nói vậy, bọn họ lại chẳng quan tâm.
“Bà già mù, chuyện này đâu thể trách chúng tôi, năm nào cũng cái nghi lễ này, tốn bao nhiêu tiền biết không?”
“Có hương là tốt lắm rồi, làm gì phải tốn tiền làm to chuyện?”
“Đúng đấy.”
“Một ngày ba bữa có người mang cơm cho bà, ăn cơm trăm nhà chẳng đói chết nổi, chúng tôi thì khác, vừa phải nhường phần cơm cho bà, vừa phải tiết kiệm tiền để chi ra lúc này, không làm chủ nhà thì không biết gạo muối đắt thế nào đâu.”
“Ơ kìa mấy người nói nhiều làm gì, bà ta là bà mù còn điếc nữa, nghe được gì đâu.”
Thái độ của họ quá tệ.
Thứ bên trong tháp bắt đầu náo loạn.
Tôi nhíu mày, sắc mặt lạnh xuống:
“Đừng lấy lý do không có tiền để biện hộ, số tiền cần vào mỗi dịp này hằng năm, tôi đã sớm xin giúp các người rồi.”
“Không phải tiền của các người, các người nuốt mất, đến lúc đó đánh đổi là mạng sống đấy.”