Chương 7 - Ánh Đèn Dầu Sáng Rực
20
Vu Tam giao Quyên Sanh cho quản gia đưa về trước, cô ta cõng tôi về.
Vì tôi không chịu ngồi xe, nói xe cô ta nồng nặc mùi tư bản.
“Tôi nhớ ra rồi, bài hát đó hát thế này…”
“Chúng tôi yêu tự do, nâng ly vì tự do.”
Hôm đó, mưa phùn bay khắp thành phố.
Tôi nhảy lên chuyến xe điện cuối cùng, Vu Tam sợ tôi xảy ra chuyện nên bám sát theo sau tôi.
Cho đến khi bình minh le lói ở phía chân trời.
Lúc đó, tôi đã nghĩ trường nữ công sẽ tiếp tục hoạt động.
Chúng tôi là học sinh khóa đầu tiên của trường nữ công, nhưng hóa ra cũng là khóa cuối cùng.
21
Tôi nghe tin vào ngày hôm sau, sau khi tỉnh rượu.
Hôm qua chồng Uyển Quân đến đón cô ấy, trên đường về thì gặp lính Nhật tràn vào.
Cả hai đều đã mất.
Uyển Quân thường đỏ mặt khi cho con bú.
Thà để căng sữa cũng không muốn cởi áo trước mặt mọi người.
Cứ như vậy, cô ấy chết thảm trên đường phố trong tình trạng không mảnh vải che thân.
Tôi như phát điên, muốn xông đến đồn để đòi công lý, Vu Tam cho người giữ chặt tôi lại.
“Cô đến đó làm loạn cũng không giải quyết được vấn đề gì.”
Nhưng làm thế nào để giải quyết vấn đề, lúc đó không ai biết.
Trong thành phố ngày càng có nhiều tin đồn đáng sợ, dì Lý đã nộp đơn xin nghỉ việc ở nhà máy, dì ấy muốn về quê.
Vừa khéo cháu trai của dì ấy ở Chiết Giang cưới vợ, gửi thư mời dì ấy về ăn mừng.
Dì ấy biết tôi đau buồn vì chuyện của Uyển Quân nên đã kéo tôi đến tiệm vải chọn một tấm vải.
“May hai bộ quần áo, một bộ cho cháu dâu, một bộ cho tôi mặc.”
“Về quê ăn mừng, nếu không về nữa thì sợ quên cả tiếng địa phương mất.”
Tôi đích thân đưa dì ấy lên tàu.
Sau đó, tôi nghe đài phát thanh đưa tin, chuyến tàu đó bị ném bom, nửa toa tàu bị nổ tung.
Lúc đó chỉ còn cách ga cuối một ga nữa.
Chỉ còn một ga nữa là dì Lý có thể về nhà.
Lại thêm một thời gian nữa trôi qua.
Nhà máy than nơi Tiểu Khâu làm việc bị bán cho người Nhật.
Người Nhật bắt nhà máy phải hoạt động ngày đêm, sau khi mấy công nhân kiệt sức chết, mọi người đều nổi giận.
Trong lúc tranh chấp, Tiểu Khâu bị đẩy vào lò, thi thể không còn nguyên vẹn.
Hàng gạo cũng bị ảnh hưởng, giá gạo ngày càng tăng cao.
Nông dân ở quê lên bán gạo, thím Vương sẽ báo trước cho chúng tôi một tiếng.
Chúng tôi không phải xếp hàng ở hàng gạo để mua, mà có thể mua gạo từ thím ấy với giá gốc.
Hôm đó, thím Vương nói gạo đợt này rất thơm, chúng tôi chắc chắn phải ở lại nhà thím ấy ăn một bữa rồi mới được đi.
Lạp xưởng bảy phần mỡ ba phần nạc, cải Thượng Hải làm dưa muối.
Lúc lấy đũa, thím Vương vô thức lấy năm đôi.
Đặt xuống mới nhớ ra, có ba người sẽ không bao giờ quay lại nữa.
“Nhớ nhớ quên quên.”
Dì ấy cất đũa thừa đi, tay trái lau mặt một cái.
“Lát thím ăn với mấy đứa sau.”
Lúc đó tôi không nghĩ ngợi gì nhiều.
Ngày hôm sau, tôi nhận được tin, thím Vương đã treo cổ tự tử ở nhà, vì không muốn tặng gạo miễn phí cho người Nhật.
Chưa đầy ba tháng, trong lớp chúng tôi chỉ còn lại tôi và Vọng Nam.
22
Vọng Nam quyết định bán tiệm bánh bao với giá rẻ, đổi lấy tiền trốn nạn về phía Tây.
Nhưng thời cuộc loạn lạc như vậy, giá cả liên tục giảm, cũng chẳng mấy ai hỏi mua.
Nhà máy dệt trả lương tháng cuối cùng, cũng sắp bán cho người Anh.
Tôi cầm giấy thôi việc đi trên đường, không hiểu sao lại quay trở lại trường nữ công.
Ba chữ "Trường nữ công" được viết bằng bút lông đã phai màu, tấm biển nứt nẻ như vân tuyết.
Cánh cửa sắt kẽo kẹt mở ra, không khóa.
Tôi bước vào, xuyên qua lớp bụi dày, như thể nhìn thấy cảnh tượng năm xưa trong lớp học, than vẫn cháy bập bùng.
Tiểu Khâu đang ngủ gật, suýt nữa thì than đốt cháy giày bông của cô ấy.
Dì Lý đứng dậy trả lời câu hỏi, giọng địa phương đặc sệt khiến mọi người đều bật cười.
Uyển Quân dịu dàng nở nụ cười, má lúm đồng tiền hiện ra.
Thím Vương bế Quyên Sanh giúp tôi, Vọng Nam khẽ hát ru con.
Tôi quay lại nhìn trộm tiểu thư Vu Tam đang ngồi nghe ở hàng sau.
Hôm đó vừa hay học bài thơ "Kim Lũ Khúc Nhị Thủ" của Cố Trinh Quan.
“Tôi cũng phiêu bạt đã lâu, mười năm qua, ân sâu khó trả, người luôn là thầy là bạn của tôi.”
23
“Rầm” một tiếng.
Tôi lần theo âm thanh, thấy mấy công nhân đang tháo tấm biển “Trường Nữ Công”.